Thursday, November 18, 2021

 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc


ĐƠN TỐ CÁO


        Kính gửi:  

- Sử gia Dương Trung Quốc, Đại biểu Quốc Hội tỉnh Đồng Nai.

   Văn Phòng Quốc Hội. Địa chỉ: 22 Hùng Vương, Ba Đình, Hà Nội

- Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam, Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19.

- Thanh Tra Nhà Nước.

- Tòa Án Nhân Dân tỉnh Đồng Nai.

(V/v Môi Trường Sống bị ô nhiễm và Quyền Sử Dụng Đất của tôi bị xâm phạm.)

 

Căn cứ:

- Hiến Pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

- Luật Đất Đai.

- Luật Bảo vệ Môi trường.

- Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ Em.

Tôi xin gửi đến Quý Chức đơn Tố Cáo này với nội dung như sau: 

 

I. LÝ LỊCH NGUYÊN ĐƠN:

Tôi tên là Trần Huynh, sinh năm 1954. Nghề nghiệp: Nông dân. Hiện cư ngụ tại ấp Phú Sơn, xã Bắc Sơn, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.

Nguyên trước 30/4/1975, tôi là lính của quân đội chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Sau 30/4/1975, tôi về thôn Phú Sơn, xã Hố Nai 4, quận Đức Tu, tỉnh Biên Hòa làm ruộng rẩy. Tại đây tội được trả quyền công dân và liên tục canh tác, đăng ký sử dụng đất và làm nghĩa vụ thuế trên những thửa đất hợp pháp này cho đến nay.






II. CÁC VỤ VIỆC XÂM PHẠM QUYỀN CÔNG DÂN VÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA TÔI:

1. ĐẤT RUỘNG KHAI HOANG:

Tại Phú Sơn, gia đình tôi có mua một thửa vườn cây ăn trái có diện tích 8000 mét vuông. Những năm sau chiến tranh là những năm đói, tôi đã san một phần diện tích mảnh vườn này thành ruộng bậc thang và tiếp tục khai hoang, đào mương thoát nước cho dòng suối nhỏ cuối vườn để mở rộng diện tích ĐẤT TRỒNG LÚA. Hoạt động KHAI HOANG PHỤC HÓA  này được chế độ đất đai và chính quyền địa phương hồi đó khuyến khích cho phép. Những hộ dân có đất ven Suối Nhỏ tại Phú Sơn đều đã đào mương thoát nước, san bằng lòng suối thành ruộng để trồng lúa.

Ngày 31/12/1993, cha tôi là chủ hộ có làm đơn xin sang nhượng diện tích 8000 mét vuông đất vườn này cho bà Nguyễn Thị Nguyệt. Đơn được Ủy ban xã Hố Nai 4 chứng thực cho phép.

Tuy nhiên không rõ căn cứ vào đâu, ngày 7 tháng 1 năm 1994 Ủy ban Nhân dân huyện Thống Nhất (nay là huyện Trảng Bom) do Phó chủ tịch Nguyễn Viết Bo đã ký quyết định 02/QĐ-UBH cho phép chuyển cho bà Nguyệt Quyền Sử Dụng một diện tích đất là 11.000 mét vuông. Bản đồ địa chính huyện Thống Nhất lô 103/9411 do Đậu Đình Bảy và Phần Văn Nga ký cho thấy tổng diện tích đất chuyển cho bà Nguyệt là 9411 mét vuông, trong đó gồm 8000 mét vuông đất vườn nói trên và diện tích đất KHAI HOANG lòng suối mà tôi đã khai phá.

Quyết định chuyển quyền sử dụng đất này của UBND huyện Thống Nhất đã vi phạm luật Đất Đai 1994, đã xâm phạm quyền sử dụng diện tích đất 3000 mét vuông đất mà tôi đã khai phá để trồng lúa và rau xanh. 

Tôi cho rằng UBND huyện Thống Nhất (nay là huyện Trảng Bom) đã làm trái pháp luật khi chuyển quyền sử dụng đất ruộng khai phá của Nông Dân cho một cán bộ cao cấp ở thành phố HCM không trực tiếp làm Nông Nghiệp. Tôi đã nộp đơn Khiếu Nại Tố Cáo đến Ủy Ban Nhân Dân và Tòa Án Nhân Dân huyện Thống Nhất. Nhưng cho đến nay các Đơn của tôi không được giải quyết.







2.   ĐẤT TRỒNG RỪNG:

Từ đầu những năm 80, chủ hộ gia đình tôi là cha tôi Trần Văn Quyền cùng với những sĩ quan chế độ VNCH vừa được thả ra từ các trại cải tạo gồm các ông: Cao Hoàng Hà, đại úy Công Binh cựu cầu thủ Ngôi Sao Gia Định; Ngô Văn Ngộ, trung úy Trung tâm Huấn luyện Hòa Cầm Đà Nẵng; Vũ Văn Nhân, trung úy TQLC Căn cứ Sóng Thần; Nguyễn Gia Phiên, sĩ quan Không Quân Căn cứ Biên Hòa, Phan Văn Hương, đại úy Trung tâm Huấn luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ… cùng nhiều người dân ấp Phú Sơn đã tham gia chương trình ‘trồng rừng phủ xanh đồi trọc’ của nhà nước. 

 Năm 1996, tôi đã đăng ký Sử Dụng 1 hecta đất rừng nói trên của cha tôi là Trần Văn Quyền. Sau đó ban Ấp Phú Sơn thông báo là đã có Quyết định huyện cấp giấy CNQSDĐ cho các hộ trồng rừng. Tại lô 87, tờ bản đồ số 53, diện tích 49995 mét vuông (gồm 1 hecta của ông Nhân, 1 hecta của tôi, 1 hecta của ông Hưởng, 2 hecta của ông Phiên) là do tôi đứng tên 'vùng đo bao'. 

Ngày 18 tháng 3 năm 2006, khi ban Ấp Phú Sơn đào đất trên lô đất rừng của ông Nhân để làm đường (nay là đường Bắc Sơn Long Thành), tôi thuê xe cuốc của ban Ấp để đào mương thoát nước và đắp bờ cho phần ruộng ven suối làm ao cá. (Phần đất này do tôi khai hoang đã bị Quyết định huyện Thống Nhất giao cho bà Nguyệt năm 1994 nói trên.) 

Khi xe cuốc đang đào mương dưới suối thì có một người đàn ông tự xưng là Huỳnh Thanh Xuân, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Khu Công Nghiệp Hố Nai 3 (HONIZ) chạy đến ngăn cản. Ông Xuân cho rằng tôi đã đào ao trên ‘đất quy hoạch Dự án 2 của Khu Công Nghiệp Hố Nai 3’, và ông này đã kêu Công An xã vào lập biên bản đình chỉ việc đào mương và triệu tập gia đình tôi ra UBND xã.

Hộ gia đình tôi thuộc diện Xóa Đói Giảm Nghèo tại Phú Sơn, đã được Xã Bắc Sơn xác nhận cho làm Dự án Vờ-A-Cờ, và đã được Ngân hàng Chính Sách Xã Hội huyện Trảng Bom cho vay vốn để trồng rừng và làm kinh tế vườn trên lô đất rừng 87/49995 và đất ruộng lô  103/9411. Tuy nhiên, sau đó UBND xã Bắc Sơn, huyện Trảng Bom đã 'ém' không cấp giấy CNQSDĐ cho chúng tôi theo luật Đất Đai quy định. Tại UBND xã Bắc Sơn, Công An Xã và địa chính xã Nguyễn Văn Thành đã cố tình lập biên bản vu khống tôi ‘sử dụng đất trái mục đích’ theo điều 64 khoản 1 luật Đất Đai, với mục đích kiếm cớ tịch thu quyền sử dụng đất ruộng và đất rừng của chúng tôi mà không phải bồi thường khi đem bán cho tư nhân.

Bất chấp những đơn khiếu nại tố cáo của tôi gửi lên UBND tỉnh Đồng Nai, hecta đất rừng của tôi (lô 87, tờ 53) đã bị chính quyền địa phương bán cho các công ty tư nhân khác mà không cần phải Thông báo Quy Hoạch theo luật định.

Vụ việc ‘thu hồi đất’ bất hợp pháp này của tôi đã kéo theo những hecta đất rừng của các sĩ quan cải tạo nói trên. Tôi đã làm đơn tố cáo ông Huỳnh Thanh Xuân, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Khu công nghiệp Hố Nai 3 (Honiz) và UBND xã Bắc Sơn về hành động vi phạm quyền sử dụng và chiếm đoạt đất ruộng lô 112/9411 và hecta đất rừng lô 87/49995 của tôi. Đơn được Báo Tuổi Trể chuyển cho UBND tỉnh Đồng Nai, UBND tỉnh đã chuyển đơn về UBND huyện Trảng Bom nhưng vu việc của tôi cho tới nay không được cứu xét.

Nay tôi làm đơn này tố cáo UBND Xã Bắc Sơn qua địa chính Xã Nguyễn Văn Thành đã cấu kết với Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Khu Công nghiệp Hố Nai ông Huỳnh Thanh Xuân đã bịa đặt ra Dự Án 2 để cướp trắng đất rừng của chúng tôi. 

Chúng tôi cũng yêu cầu các cấp có thẩm quyền cho Thanh Tra các Dự Án 1 và 2 của Công ty Cổ phần Khu Công nghiệp Hố Nai 3. Vì cho đến nay Dự Án 2 vẫn chưa được thông báo Quy hoạch, chưa có phương án Bồi thường và Tái định cư cho Nhân dân Phú Sơn theo luật định. Chúng tôi cho rằng các Dự Án ma này đang được các 'nhà Đầu Tư bịt mặt' bịa ra để hù dọa nhân dân để cướp đất. Vì trên bản đồ quy hoạch họ vẽ ra bao gồm Nghĩa trang Giáo xứ Phú Sơn, Tu viện Nữ Đa Minh Vinh Sơn, chùa Phước Sơn… là những cơ sở Tôn Giáo. Và phần đất dưới đường dây điện 500 kv Đa Nhim thuộc Lưới Điện Quốc Gia cũng bị quy hoạch thành đương số 15 trong bản đồ của họ.









 3. ĐẤT VƯỜN ĐIỀU VÀ ĐẤT Ở:

Từ tháng 5 năm 1975, tôi về Phú Sơn mua nhà đất làm ruộng rẩy và canh tác trên những thửa đất của Công ty Chăn nuôi Gia Cầm SCALA do Linh mục Louis Phạm Đức Anh, DÒNG CHÚA CỨU THẾ làm Giám Đốc. Đến năm 1977 thì công ty này bị giải thể. Lúc này, tôi đã xin đăng ký sử dụng 1 hecta đất, sau này là lô 107 tờ 53 trên bản đồ địa chính ấp Phú Sơn. 

Năm 1985, tôi lập gia đình và đã được cha mẹ tôi giao sử dụng một phần lô đất này. Trên đất này tôi đã trồng điều và làm nhà ở. Tôi đã được UBND xã Hố Nai 4, huyện Thống Nhất (nay là xã Bắc Sơn huyện Trảng Bom) cấp chứng nhận quyền Sử Dụng Đất, và được NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP cho thế chấp để vay vốn sản xuất. Tôi đã đóng thuế nhà đất và đã liên tục sử dụng đất này cho đến ngày nay.

 VỤ VIỆC:

-          Ngày 26/2/2000, căn nhà tranh vách đất trên lô đất này nơi gia đình tôi cư ngụ sắp sập, chúng tôi ra UBND xã Bắc Sơn làm đơn xin làm nhà thì bị chủ tịch xã là ông VĂN CÔNG TẠO từ chối không ký đơn. Ông này bút phê rằng rằng đất này của mẹ tôi là Phan Thị Thế đã cho con gái là Trần thị Như Bảo, không ký được.

Cán bộ Tư pháp xã lúc đó là ông Nguyễn Quang Trung giải thích rằng lô đất 107/7892 này do cha tôi Trần Văn Quyền là chủ hộ đứng tên sổ thuế, nay cha tôi mất đi thì theo’ luật đất đai’ mẹ tôi là Phan Thị Thế sẽ là người thừa kế làm chủ hộ và đứng tên quyền sử dụng đất miếng đất vườn điều nơi tôi đã thế chấp để vay vốn Ngân Hàng Nông Nghiệp.

(Sau đó, nghe nói mẹ tôi đã ký bán 5 hecta đất của trại gà SCALA mà tôi và anh em bà con đã canh tác từ những ngày đầu tháng 5 năm 75 cho người thân của ông Trung. Đó là những mẫu đất của ông Trương Hữu Mầu, Trương Văn Phúc, Trần Quốc.. đã DI DÂN ĐI KINH TẾ MỚI ÔNG QUẾ theo chính sách kinh tế của nhà nước thời đó và để đất lại cho thân nhân của họcho bà con của họ canh tác.)

Tôi cho rằng UBND xã Hố Nai 4, nay là xã Bắc Sơn đã dùng tên của mẹ tôi là Phan Thị Thế để ký giấy bán đất của những người DI DÂN KHAI PHÁ VÙNG KINH TẾ MỚI nói trên là bất hợp pháp, vì cho đến năm 2005 mẹ tôi mới được cấp sổ đỏ GCNQSDĐ. Việc cấp sổ đỏ cho những người được mẹ tôi mua bán tặng cho đất đai trước năm 2005 đều hoàn toàn bất hợp pháp.)

Sau khi nhận được ‘quyền sử dụng đất’ do ‘luật đất đai của ông Trung’ tặng cho: Các em tôi gồm TRẦN THỊ KIM THỦY, TRẦN THỊ NHƯ BẢO, TRẦN THỊ THU LAN, TRẦN THỊ THU HƯƠNG liền xúm lại hành hung tôi và phá tan căn nhà gạch mái lá đang xây dở dang. Sau đó chúng kêu người triệt hạ vườn điều mà gia đình tôi đã trồng trọt và đang thu hoạch.

Sau đó, Trần Thị Như  Bảo đã cho một xí nghiệp ván lạn tên Hà thuê mặt bằng trên đất vườn điều nói trên là lô 107/7892 tờ 53 trên bản đồ địa chính ấp Phú Sơn cho đến nay.

-Vụ việc 2:

Ngày 15/4/2021, khi tôi cho con gái Trần Thị Thảo Hiền một miếng đất để làm nhà ở và trồng cây lâu năm trên lô đất này thì bị UBND xã Bắc Sơn đã đứng ra liên tục ngăn cản:

 Các ông NGUYỄN VĂN THỂ, chủ tịch UBND xã Bắc Sơn; ông LÊ VŨ TIẾN, công chức Địa Chính Xã; ông NGUYỄN CỬU TRỌNG, cán bộ Địa Chính Xã lấy cớ là con tôi xây dựng nhà ở trên 'đất Quy Hoạch của các nhà Đầu Tư', đã lập biên bản yêu cầu đình chỉ việc xây dựng nhà ở, đòi phá dỡ căn nhà cấp 4 đang xây dở dang của con gái tôi khi đòi chúng tôi "tự tháo dở", “trả lại hiện trạng ban đầu”, và cáo buộc con gái tôi đã “sử dụng đất trái mục đích” trong khi con gái tôi là công nhân. 

Chúng tôi biết Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quy định là Mọi Công Dân Được Quyền Có Nhà Ở Hợp Pháp, và Quyền Sử Dụng đất cho phép chúng tôi được hưởng thừa kế đất đai do cha mẹ để lại. 

-  Nay tôi làm đơn này Tố Cáo UBND XÃ BẮC SƠN đã lợi dụng chức quyền để xâm phạm tới Quyền Có Nhà Ở Hợp Pháp và Quyền Sử Dụng Đất của chúng tôi và khởi kiện những người này ra trước pháp luật.
















III. MÔI TRƯỜNG SỐNG BỊ Ô NHIỄM:

Từ lâu tại ngã tư đường đất giáp với lô đất 107 của tôi đã xây một đường cống xả nước thải vào nhà tôi. Các hộ nuôi heo giáp với đất nhà tôi đã từng bị Đài Truyền Hình lên sóng vì tội dùng các chất tạo nạc của Trung Quốc, các xác heo chết vì dịch tả Tàu, và gần đây có hộ bị cách ly vì bị nghi tiếp xúc với người dương tính dịch Covid… Các chất độc hại này đã theo đường cống đổ vào đất nhà tôi sau những cơn mưa, làm ô nhiễm giếng nước sinh hoạt của gia đình tôi. Tôi cho rằng các cháu nội ngoại của tôi bị quái tật từ tuổi sơ sinh là do các dòng nước bẩn này gây ra. 

Tuy nhiên, khi hộ gia đình chúng tôi làm bờ bao ngăn chặn giòng nước bẩn thì bị Địa Chính xã xuất hiện ngăn trở và đòi phải làm đơn xin phép UBND xã Bắc Sơn, vì chúng tôi xây nhà và làm hàng rào trên 'Đất Quy Hoạch' của các 'nhà Đầu Tư Bịt Mặt' nào đó.

Mùa Mưa và Mùa Dịch đang đến. Chúng tôi khẩn thiết yêu cầu  Ủy ban quốc gia phòng chống dịch COVID-19 xã Bắc Sơn cho thanh tra rà soát lại tình trạng vệ sinh phòng chống dịch tại Phú Sơn để sức khỏe nhân dân được bảo vệ qua cơn dịch vật.




IV. YÊU CẦU ĐƯỢC CỨU XÉT GIẢI QUYẾT ĐƠN TỐ CÁO.








 Kính thưa Sử gia Dương Trung Quốc, Đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai:

Thế là đã 46 năm kể từ ngày Miền Nam hoàn toàn Giải Phóng, cũng đã 46 năm tôi rời thành phố Sài Gòn về Phú Sơn làm ruộng rẫy, đến nay tôi đã mất sạch quyền Sử Dụng những miếng đất hợp pháp mà tôi đã đổ mồ hôi sôi nước mắt lao động canh tác trong suốt 46 năm qua.

Những vụ việc trong đơn đã xảy ra trong thời gian Ông làm Đại Biểu Quốc Hội tỉnh Đồng Nai. Nay tôi làm Đơn Tố Cáo này xin Quý Đại Biểu Quốc Hội chuyển đến các cấp Lãnh Đạo chức năng, để Vụ Việc trong Đơn được Thanh Tra và Giải Quyết, để Quyền Công Dân của chúng tôi được Bảo Vệ, và Quyền Sử Dụng Nhà Đất của gia đình chúng tôi được huyện Trảng Bom cấp Giấy Chứng Nhận sau 46 năm tôi lao động Nông Nghiệp tại Phú Sơn. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đọc Tuyên ngôn Độc Lập có nói: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Đó quyền được Sống, quyền Tự Do và quyền mưu cầu Hạnh Phúc”.Theo đó chúng tôi mong rằng Hộ gia đình 4 đời chúng tôi sẽ được sống trong một Môi Trường An Lành, quyền Công Dân và quyền Sử Dụng Đất được Tôn Trọng và Bảo Vệ theo như Hiến pháp và Luật Đất Đai của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quy định.

Trong khi chờ đợi Đơn Tố Cáo này được cứu xét và giải quyết, chúng tôi xin gửi đến quý cấp Lãnh Đạo lời chào trân trọng.

Phú Sơn, ngày 30 tháng 4 năm 2021.

Người làm đơn ký tên:              


 Trần Huynh.

 

Monday, December 7, 2009

Chiến Thuật Chiến Lược tại Miền Nam 1959-1975


Trọng Đạt


Cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc trưa ngày 30-4-1975 khi Cộng quân lũ lượt kéo vào Sài Gòn y như nước chảy, cho tới nay có nhiều nhân định, ý kiến của nhiều nhà bình luận, các giới chức chính trị, quân sự…về nguyên do đưa tới sụp đổ miền Nam. Người cho là Hiệp định Paris bất lợi đã đưa tới cái chết thảm khốc, hoặc cho kế hoạch tái phối trí lực lượng của giới lãnh đạo khiến miền Trung mất trong thời gian kỷ lục đưa tới sụp đổ toàn diện, nhiều người đổ lỗi cho quốc hội Mỹ cắt quân viện hoặc phong trào phản chiến đã thúc đẩy lập pháp Hoa Kỳ rút quân bỏ Ðương Dương. Trên thực tế không riêng nguyên nhân nào có tác dụng ảnh hưởng hoàn toàn mà có thể là hậu quả của sự kết hợp của tất cả những nguyên nhân ấy.

Trong cuốn Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, tác giả cựu Ðại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng có nói trong hai trang cuối cùng 294, 295..

“Trong quyển Chiến Thụât và Chiến Lược (Trung Tâm Quân Sử, Lục Quân Hoa Kỳ 1980), tác giả Ðại Tá Hoàng Ngọc Lung có nói đến một số châm ngôn về chiến tranh như sau ( không rõ xuất xứ):

Khi chiến thuật sai và chiến lược sai thì chiến tranh sẽ chóng thua;
Khi chiến thuật đúng nhưng chiến lược sai, trận chiến có thể thắng nhưng chiến tranh sẽ thua;
Khi chiến thuật sai nhưng chiến lược đúng, trận chiến có thể thua nhưng chiến tranh sẽ thắng; và
Khi chiến thuật đúng và chiến lược đúng thì chiến tranh sẽ thắng mau lẹ.

Cả Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ đều ở vào trướng hợp thứ hai. Trong phần kết luận ở cuối sách, tác giả đã nêu rõ lý do tại sao VNCH không tồn tại được. Bây giờ phải thêm một lý do không kém phần quan trọng – Nếu không nói là quan trọng nhất: Cả Hoa Kỳ và VNCH không áp dụng một chiến lược địa lý chính trị (geopolitics) thích nghi và hữu hiệu cho cuộc chiến. Cũng vì chúng ta không có một chiên lược thích nghi và hữu hiệu cho cuộc chiến nên phía Cộng sản mới có thể đem nhiều quân vào miền Nam và đạt được thế thượng phong trong tương quan lực lượng”

Trên đây là một lối giải thích khác về nguyên nhân sụp đổ của miền Nam dựa trên khía cạnh Chiến thuật chiến lược. Nhận thấy ý kiến của cựu Ðại Tá Hoàng Ngọc Lung và cựu Tướng Cao văn Viên hay, sâu sắc có những nét độc đáo nên chúng tôi cũng muốn góp ý vào một ít lời bàn Mao Tôn Cương để tìm hiểu thêm về khía cạnh này.

Trước hết chúng tôi xin định nghĩa hai danh từ Chiến thuật và chiến lược. Theo tự điển Hán Việt của Ðào Duy Anh chiến lược có nghĩa Mưu lược, kế hoạch về việc chiến tranh (tiếng Pháp: stratégie, Anh: strategy), chiến thuật là phương pháp bày sắp sai khiến quân đội ở chiến trường (Pháp:tactique, Anh : tactics). Trong tự điển Mỹ Webster’s NewWorld College Dictionnary định nghĩa strategy (chiến lược) là kế hoạch và điều động một chiến dịch quân sự lớn (The science of planning and directing large-scale military operations), tactics (chiến thuật) là việc sắp xếp và thao diễn các lực lượng quân sự, hải quân vào trận địa hay trước địch quân (The science of arranging and maneuvering military and naval forces in action or before the enemy).

Như vậy chúng ta có thể hiểu chiến lược là kế hoạch quân sự cho cuộc chiến (the war), còn chiến thuật là kế hoạch quân sự cho một trận đánh (battle) hoặc nói khác đi chiến lược là kế hoạch quân sự ở bình diện lớn, ngược lai chiến thuật ở bình diện nhỏ, thí dụ máy bay B-52 gọi là máy bay chiến lược, máy bay khu trục phản lực F-5 gọi là máy bay chiến thuật.

Ông Cao Văn Viên dẫn lời ông Hoàng Ngọc Lung cho biết VNCH và Hoa kỳ ở trong trường hợp chiến thuật đúng nhưng chiến lược sai thì chiến tranh sẽ thua. Chúng ta có thể hiểu là kế hoạch quân sự tại các mặt trận đúng nên VNCH đã thắng được nhiều trận lớn như Mậu thân 1968, An Lộc, Kontum hay Quảng trị… năm 1972 nhưng kế hoạch cho toàn bộ cuộc chiến sai nên đã thua cuộc chiến (lose the war).

Cũng trong trang cuối của cuốn sách này ông Cao Văn Viên nói.

“Thêm vào đó, sự liên hệ với Hoa Kỳ giới hạn nhiều hoạt động và bắt buộc VNCH phải nằm trong thế thủ”

Như chúng ta đều biết cuộc chiến tranh từ 1959 cho tới 1975 miền Nam luôn luôn nằm trong thế thủ, chúng ta chỉ tự vệ chống lại quân xâm nhập của Bắc Việt, họ luôn ở thế tấn công. Mặc dù biết rằng phòng thủ có nhiều bất lợi vì không biết địch sẽ đánh ở đâu lúc nào, nhưng VNCH phải phụ thuộc vào người Mỹ, họ không muốn chúng ta đánh qua bên kia vĩ tuyến 17 vì nhiều lý do.

Bắc Việt có lợi thế lựa chọn chiến trường, họ tập trung quân và có ưu thế về quân số cũng như hoả lực tại trận đánh từ thời chiến tranh du kích thập niên 60 cũng như thời chiến tranh qui ước thập niên 70. Trận Ban Mê Thuột tháng 3-1975, theo hồi ký của Tướng BV Văn Tiến Dũng vì Cộng quân tập trung lực lượng tại khu vực chủ yếu nên bộ binh BV trội hơn VNCH gấp 5 lần, xe tăng coi như ngang nhau, pháo binh gấp 2 lần.

Ông Cao Văn Viên cho rằng vì chúng ta không có một chiến lược địa lý chính trị thích nghi và hữu hiệu cho cuộc chiến nên phía Cộng sản mới có thể đem nhiều quân vào miền Nam và đạt được thế thượng phong trong tương quan lực lượng, ông muốn nói VNCH cần phải có kế hoạch ngăn chận sự xâm nhập của BV.

Năm 1965 Hội đồng an ninh quốc gia Hoa Kỳ đưa ra “chính sách áp lực, đe dọa vừa phải” để hy vọng BV sẽ phải lên bàn hội nghị thương thuyết thuận lợi cho Mỹ. Sau đó Tổng thống Johnson cho áp dụng chính sách đánh cầm chừng, giới hạn mục đích cho BV thấy sự thiệt hại để phải lên bàn hội nghị.

Năm 1965 quân số Mỹ tại miền Nam là 184 ngàn, năm 1966 lên 385 ngàn, năm 1967 là 485 ngàn, 1968 lên 536 ngàn đó là đỉnh cao của sự hiện diện của Mỹ trong cuộc chiến. Theo tiến sĩ Nguyễn Ðức Phương (Chiến Tranh VN Toàn Tập) trong ba năm 1965, 66, 67 BV đã bị thiệt hại khoảng gần 350 ngàn người nhưng họ vẫn tiếp tục gia tăng nhân lực từ 180 ngàn năm 1964 lên tới 261 ngàn trong năm 1967. Mặc dù bị oanh tạc dữ dội ngoài Bắc cũng như trên các tuyến đường xâm nhập, bị thiệt hại nặng trong các cuộc giao tranh nhưng họ vẫn tiếp tục xâm nhập và lì lượm không chịu thương thuyết.

Theo tin báo Times tháng 6-2009: năm 1965 có 1,300 lính Mỹ tử trận tại VN, năm sau 1966 tăng lên 5,000, năm 1967 lên 9,300, năm 1968 lên 14,000, tới 1968 tổng số lính Mỹ tử trận lên tới khoảng 31,000 người. Ngày 6-4-1969 Tướng Wesmoreland, cựu Tổng Tư lênh quân đội Mỹ tại VN và Ðô đốc Sharp cựu tổng tư lệnh Mỹ tại Thái bình dương công bố bản phúc trình 347 trang về chiến cuộc tại Việt Nam trong 4 năm chỉ huy. Các Tướng nhấn mạnh sự bó tay của Bộ tư lệnh Mỹ trước chính sách chiến tranh hạn chế của TT Johnson và sự cấm đánh qua Mên và Lào .

Ngày 27-4-1969 Ðô đốc Grant Sharp, cựu Tổng tư lệnh Mỹ tại Thái Bình Dương, đăng báo công kích cựu bộ trưởng Quốc Phòng McNamara: ông này đã ngăn cản không cho oanh tạc để phá hủy các cơ sở và tiềm lực kinh tế Bắc Việt mà chỉ cho ngăn chận sự xâm nhập , nên các cuộc oanh tạc hoá ra vô hiệu.
Như vậy kế hoạch chiến tranh giới hạn của Johnson - McNamara thất bại về chiến lược đã đưa phong trào phản chiến lên cao, hành pháp Hoa Kỳ phải đương đầu với cuộc chiến tranh ngay tại đất nhà (War at home) để rồi chính nó đã làm sụp đổ toàn diện cuộc chiến.

Theo ông cao Văn Viên

“Thật vậy, gần một phần tư thế kỷ, Cộng sản Việt Nam có được hai ưu điểm lớn hơn phía Tự do: Họ có được sự an toàn ở các căn cứ hậu cần – trong nội địa hay bên quốc gia lân cận – những căn cứ hậu cần đó là nơi họ dưỡng quân sau những cuộc đụng độ để chuẩn bị cho những trận đánh mới mà không sợ bị quấy phá.”
Những Ngày Cuối VNCH, trang 282



“Về phía Hoa Kỳ, theo tướng Phillip Davidson (Viet Nam at War, Oxford University Press,1988), cả Bộ Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ cùng đô đốc Sharp và đại tướng Wesmoreland, đều có kế hoạch đánh ra vùng bắc khu phi quân sự, cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, đánh phá các căn cứ ở Lào, Cam Bốt, và oanh tạc các mục tiêu quan trọng chung quanh Hà Nội, Hải Phòng. Các kế hoạch trên đều không được tổng trưởng quốc phòng McNamara và tổng thống Johnson (1967) chấp thuận”.
Những Ngày Cuối VNCH trang 292

Cuối tháng 6-1965 chiến dịch lùng và diệt địch (Search and Destroy) ra đời, trong những năm 1965, 1966, 67 CSBV bị tổn thất nặng trước hoả lực hùng hậu của không quân và pháo binh Mỹ, họ phải rút về những chiến khu hoặc bên kia biên giới. Cuối năm 1967 Tướng Wesmoreland cho biết tình hình VN khả quan, Mỹ có thể rút quân năm 1969 nhưng CS bất thần mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, đưa 100 tiểu đoàn, khoảng 84,000 người vào trận chiến. Sau ba tháng tấn công CS thiệt hại tổng cộng 58,372 cán binh, bị bắt toàn bộ 9,461 người chỉ còn 16,168 tên chạy thoát, chưa tới 20% quân số. Mặc dù bị thiệt hại nhiều trong những năm 1965, 66, 67.. nhưng họ rút vào hậu cần bên kia biên giới nghỉ dưỡng quân và đã có khả năng mở trận tấn công qui mô.

Không riêng gì các Tướng Tư lệnh Mỹ đã đưa kế hoạch đánh qua hậu cần CS bên kia biên giới mà Tướng Cao Văn Viên cũng đã phác hoạ một kế hoạch tương tự. Ông cho rằng CS luôn tôn sùng một nguyên lý: Tiếp liệu là phương diện quan trọng nhất của chiến trường, kết quả trận chiến thường được quyết định từ đó. Năm 1971 tổn thất hàng tuần của Mỹ là 50 người, VNCH 350 người, Cộng quân 2,500 người. BV cố gắng mở đường tiếp tế, Hoa Kỳ tìm cách cắt đứt.

Từ 1966 trong một buổi nói chuyện với nhiều sĩ quan cao cấp, ông Cao Văn Viên có đề cập tới một chiến lược để đối phó với tình hình gọi là Cô Lập gồm 7 điểm:

“1-Tách rời du kích ra khỏi dân để phá đi hạ tầng cơ sở của chúng.
2- Cô lập các đơn vị chủ lực và đơn vị địa phương để cả hai không tựa vào và tiếp ứng nhau để chúng ta có thể tiêu diệt dễ hơn.
3-Triệt tiêu các căn cứ hậu cần của địch trong lãnh thổ VNCH.
4-Triệt tiêu các căn cứ hậu cần của địch ỡ những nước lân cận.
5-Thiết lập một hàng rào chống xâm nhập dọc theo vĩ tuyến 17 từ Ðông Hà đến Savannakhet.
6-Cắt liên lạc giữa mặt trận và hậu cứ của CSBV ra làm hai bằng cách đổ bộ lên Vinh hay Hà Tĩnh.
7-Thành lập một liên minh các quốc gia gồm Thái Lan, Lào Căm Bốt và Việt Nam”
Những Ngày Cuối VNCH trang 287, 288

Ông Cao Văn Viên cũng đã nói tiếp tất cả 7 điểm của chiến lược kể trên phải được thực hiện cùng một lúc thì mới có hiệu quả mong muốn. Theo ông thời gian thuận tiện nhất là sau trận tổng công kích Tết Mậu Thân 1968, lúc đó hạ tầng cơ sở Cộng Sản đã bị tiêu diệt gần như hoàn toàn, các đơn vị chính qui bị đánh bật ra vùng biên giới. Trên thực tế không một kế hoạch nào trong chiến lược Cô lập kể trên được thực hiện.

Như đã nói trên trong nhựng năm 1965, 66, 67… Johnson-McNamara chỉ cho phép quân đội Mỹ và VNCH thực hiện những kế hoạch quân sự giới hạn. Chiến lược hạn chế có mục đích làm hao mòn lực lượng BV để họ sẽ lâm vào tình trạng kiệt quệ phải lên bàn hội nghị. Kế hoạch đánh hao mòn mà Hoa Kỳ đã áp dụng thành công Thế chiến thứ hai khiến cho Ðức, Nhật phải suy yếu đi tới chỗ kiệt quệ đầu hàng nhưng lại không đạt được mục tiêu trong chiến tranh Việt Nam. Như chúng ta đã thấy ở trên mặc dù bị tổn thất rất nhiều, BV vẫn gia tăng xâm nhập. Các nước Nam Hàn, Mã Lai đã đánh bại CS, họ thuận lợi hơn miền Nam vì là những bán đảo, địa hình thuận lợi cho những kế hoạch chống xâm nhập. Miền nam VN có trên 1500 cây số biên giới phía Tây đã cho CS có một hành lang xâm nhập dài vô tận.

Ngoài ra trang 292 cuốn sách nêu trên ông Cao Văn Viên cũng nói.

“Tấn công vào Vinh hay Hà Tĩnh có lẽ là giải pháp duy nhất để chặn đứng cuộc chiến tranh trường kỳ của CSBV nếu VNCH có thể thuyết phục thế giới thấy ý định của mình là chỉ chặn đứng sự xâm nhập của Cộng sản Hà Nội. Và nếu cuộc đổ bộ này được thực hiện, mục tiêu đổ bộ sẽ nằm trong khoảng trên vĩ tuyến 18 và dưới phía nam sông Cả một chút. Lực lượng tấn công sẽ đổ bộ gần Bến Thuỷ. Từ đó lực lượng đánh ngang qua đèo Keo Neua và đèo Mụ Già-cửa ngõ của đường xâm nhập Hồ Chí Minh. Cuộc tấn công chỉ thành công khi lực lượng đổ bộ chiếm và giữ được đầu ngọn của con đường xâm nhập và chặn đứng mọi di chuyển vào Nam”

Tướng Wesmoreland và cả Tướng Viên ngoài việc lập hàng rào ngăn chận đã đề nghị đánh qua hậu cần BV bên kia biên giới với Miên, Lào hoặc phía trên vĩ tuyến 17 để dứt điểm hậu cần của CSBV và ngăn chận xâm nhập nhưng mọi kế hoạch đã không được chấp thuận. Mãi đến 1970, Tổng thống Nixon yểm trợ cho VNCH đánh qua Miên 1970 và sau đó qua Hạ lào 1971. Tại chiến trường Căm Bốt 1970, hậu cần của CSBV đã bị hủy diệt gần như hoàn toàn. Tháng 2-1971 hành quân Lam Sơn 719 đánh qua Hạ Lào, theo Tướng Hoàng Lạc cả hai bên đều bị thiệt hại nặng , ông Cao Văn Viên nói nó đã chặn đứng kế hoạch phản công của BV tại vùng I, mặc dù không thành công mỹ mãn như cuộc hành quân qua Căm Bốt nhưng Hành quân Lam Sơn 719 đã phá hủy một số lớn quân nhu quân dụng ở vùng Tchepone, làm gián đoạn sự xâm nhập của CSBV vào Nam.

Tổng thống Nixon đã yểm trợ cho VNCH đánh vào hậu cần BV tại bên kia biên giới là một kế hoạch đúng chiến lược, đạt thắng lợi lớn về quân sự nhưng bị thất bại nặng về chính trị tại Mỹ, nó thúc đẩy phong trào phản chiến lên cao hơn. Ngày 4-5-1970 trong một cuộc biểu tình tại đại học Kent, Ohio 4 sinh viên phản chiến bị quân đội bắn chết, nhiều người khác bị thương khiến những người chống chiến tranh ngày càng quyết liệt. VNCH đã thắng trận nhưng thua cuộc chiến vì từ đó lập pháp dần dần trói tay hành pháp và buộc phải rút quân. Tổng thống Johnson có nhiều cơ hội thuận lợi, đã được quốc hội ủng hộ và cho tăng quân như đã thấy: năm 1965 quân số Mỹ tại miền Nam là 184 ngàn, năm 1966 lên 385 ngàn, năm 1967 là 485 ngàn, 1968 lên 536 ngàn đó là đỉnh cao của sự hiện diện của Mỹ trong cuộc chiến. Mặc dù nhiều thuận lợi nhưng Johnson đã không đạt kết quả mong muốn, không giải quyết được cuộc chiến tranh Ðông Dương. Ông đã khiến cho số lính Mỹ tử trận ngày càng lên cao như đã nói ở trên và đã thúc đẩy phong trào chống chiến tranh lan rộng khắp nơi, cuộc chiến tại đất nhà lên cao phá hủy dần dần mọi nỗ lực chính trị quân sự Việt Mỹ .

Khi Nixon lên thay Johnson năm 1969 thì ông đã thừa hưởng tất cả những sự khó khăn do Johnson -McNamara để lại nhất là phong trào phản chiến lên cao điểm năm 1968 sau trận Mậu Thân. Nixon đã không được nhiều thuận lợi như Johnson, ông đã không được Quốc hội cho tăng quân mà phải đem lính về nước dần dần để thoả mãn đòi hỏi của phong trào chống đối. Năm 1969 rút về 61 ngàn người, năm 1970 rút 141 ngàn , năm 1971 rút 178 ngàn, năm 1972 rút 132 ngàn. Cuộc chiến tại đất nhà lên cao, Quốc hội trói tay hành pháp, năm 1972 Nixon bắt tay Trung Cộng tìm cách rút bỏ Ðông Dương một phần vì tranh cử, Lập pháp cắt viện trợ quân sự tối đa đưa tới sụp đổ nhanh chóng.

Trở lại bốn câu châm ngôn về chiến tranh của Ðại tá Hoàng Ngọc Lung, đã nói ở phần trên, nếu VNCH và Hoa Kỳ ở vào trường hợp thứ hai thì CSBV ở vào câu thứ ba.

“Khi chiến thuật sai nhưng chiến lược đúng, trận chiến có thể thua nhưng nhưng chiến tranh sẽ thắng”

Sau 1975 tại Việt Nam chúng tôi có được đọc cuốn “Nguyên Lý Căn Bản Của Chủ Nghĩa Lénine” do Staline viết, đây là một bài giảng tại viện đại học Véc Lốp.

Về quân sự Lenine đưa ra những nguyên tắc chính :

a- Con đường đã vạch ra là phải đi đến cùng.
b- Chủ động tấn công tiêu diệt địch.
c- Phòng ngự là con đường chết của vũ trang khởi nghĩa.
d- Ðã đánh là phải thắng bằng được, địch một thì ta năm, địch hai thì ta mười.

Người Cộng Sản theo rất sát những nguyên tắc của sư phụ đã đề ra, họ dai dẳng, lì lợm hy sinh nhân mạng tối đa để đạt chiến thắng.

Ngày 22-6-1941 Hitler mở chiến dịch Barbarossa đưa một lực lượng vĩ đại 180 Sư đoàn bộ binh và cơ giới, 70% lực lượng của Ðức tiến đánh miền Tây nước Nga. Mặc dù Nga đã biết trước qua một số tin tức nhưng Staline không tin và quân Ðức vẫn đạt yếu tố bất ngờ, vả lại vũ khí quân Nga lạc hậu nên đã bị Ðức đè bẹp ngay khi chiến dịch tiến hành. Từ tháng 6-1941 cho tới khi quân Ðức đã tiến sát Mạc Tư Khoa, trong gần nửa năm họ đã bắt được khoảng 3 triệu tù binh Nga. Các tài liệu cho biết Nga thiệt hại khoảng trên 200 sư đoàn, nếu chính phủ Nga không phải là Cộng Sản thì chắc đã đầu hàng, nhưng với với chính sách cứng rắn tàn bạo của Staline họ đã thắng trong cuộc Chiến Tranh Vệ Quốc Vĩ Ðại này (The Great Patriotic War).

Tổn thất nhân mạng của Nga cao nhất thế giới trong thế chiến : Tài liệu Liên xô đưa ra con số khiêm tốn 20 triệu người (kể cả dân và lính), nhưng theo số thống kê trong cuốn phim tài liệu Anh-Mỹ “Second World War, Behind Closed Door” thì tổng số tổn thất của Nga lên tới 27 triệu người chiếm một nửa tổng số người chết trên thế giới trong cuộc thế chiến. Riêng trận Stalingrad kết thúc 2-2-1943 quân Nga bị thiệt mạng 500 ngàn người (nửa triệu) gấp 4 lần quân Ðức, nhiều hơn số tồn thất của Mỹ (400 ngàn) và gần gấp hai số tổn thất của Anh (270 ngàn) trong suốt cuộc Thế chiến thứ hai. Tài liệu trong phim cho biết những người lính Nga nếu tháo chạy sẽ bị bắn giết ngay, họ có tổ chức riêng những toán an ninh đằng sau các đơn vị để buộc binh sĩ phải chiến đấu đến chết. Cuối cùng họ đã trả giá chiến thắng bằng núi xương sông máu, đó là ý nghĩa của nguyên lý con đường đã vạch là phải đi tới cùng, đã đánh là phải thắng, địch một thì ta năm, địch hai ta mười. Ngoài ra CS luôn luôn ở thế chủ động tiến công, không hề thấy họ xây dựng công sự phòng thủ hay đào hào đắp lũy.

CSVN theo sát những nguyên tắc kể trên của sư phụ Lénine, đó là chiến lược chỉ đạo cho họ trong cuộc chiến, BV theo đúng con đường đã vạch, phải nuốt cho được miền Nam bằng mọi giá qua chiến lược Cố đấm ăn xôi lì lợm, họ đã thành công trong cuộc chiến tranh chống Pháp nay đem áp dụng lại trong cuộc chiến 1960-75. Theo con số thống kê của Hoa kỳ công bố sau ngày ký hiệp định Paris 27-1-1973, có 58 ngàn lính Mỹ tử trận, quân đội VNCH có khoảng 183 ngàn binh sĩ thiệt mạng, khoảng hơn một triệu cán binh BV và một trăm ngàn quân thuộc Mặt trận giải phóng chết trong suốt cuộc chiến. Năm 1995, nhân kỷ niệm 20 năm ngày đại thắng, Hà Nội đã công nhận họ đã bị tổn thất một triệu 100 ngàn người (Chiến Tranh VN Toàn Tập) trong cuộc chiến chống Mỹ. Như thế BV đã chấp nhận tỷ lệ 16 đổi một đối với Mỹ và 5 đổi một với VNCH để đổi chiến thắng, chiến lược cố đấm ăn xôi đã thành công dựa trên xương máu của hàng triệu cán binh, chỉ có CS mới làm được như vậy.

Trong suốt cuộc chiến quân đội BV không hề phòng thủ, họ luôn ở thế tấn công, BV có lợi thế lựa chọn chiến trường và tập trung lực lượng tối đa để đạt mục tiêu giống như chiến lược của Napoléon trong Chiến Tranh Và Hoà Bình (Guerre et Paix) của Léon Tolstoi, Napoléon có nói với một cận thần tại trận Borodino 1812 bên Nga:

“Ngươi có biết thế nào là nghệ thuật quân sự không? đó là mình mạnh hơn đối phương ở một lúc nào đó, chỉ có thế thôi”
(Savez–vous ce qu’est l’art de guerre? …C’est l’art d’être à un moment donnée plus fort que l’ennemi. Voilà tout).

Trong một bài viết về Vạn Lý Trường Thành của một tờ báo Reader’s Digest năm 1973, người ký giả kết luận lịch sử đã cho thấy phòng thủ là thất bại. Mặc dù biết yếu điểm của phòng thủ nhưng như đã nói ở trên VNCH phải phụ thuộc vào Hoa Kỳ. Người bạn đồng minh không muốn tấn công qua biên giới và bên trên vĩ tuyến 17 vì sợ Trung Cộng sẽ vào tham chiến như tại Triều tiên mà cũng có thể họ muốn cù cưa kéo dài chiến tranh theo chỉ đạo của tài phiệt để buôn bán súng đạn làm giầu trên trận địa như nhiều giả thuyết đã nghi ngờ.

Từ cuộc chiến tranh chống Pháp 1946-1954, CS cũng đã chấp nhận đánh thí quân để yểm trợ phong trào chống chiến tranh tại Pháp khiến cho họ phải ghê sợ chiến tranh Ðông Dương tìm cách rút bỏ về nước. Nay CSBV lại theo đúng cái chiến lược cố đấm ăn xôi ấy, chấp nhận thiệt hại nhân mạng với tỷ số 16 đổi một để thúc đẩy phong trào phản chiến. Tuy nhiên nếu chính phủ Johnson, McNamara giải quyết nhanh gọn cuộc chiến bằng những cuộc tấn công đánh phá hậu cần BV bên kia biên giới như kế hoạch của Wesmoreland hoặc ngăn chận hữu hiệu sự xâm nhập của BV thì chiến lược Cố đấm ăn xôi sẽ bị vô hiệu hoá vì họ không thể hy vọng vào phong trào phản chiến, dẫu thí quân đến đâu cũng vô ích và phải chấp nhận ngồi vào bàn hội nghị rút quân về Bắc, nhưng cơ hội ấy đã vuột khỏi tầm tay.

CS áp dụng chiến thuật du kích, bám vào dân như cá với nước, đợi lúc thuận lợi tập trung tiến công áp đảo nhờ số đông và yếu tố bất ngờ. Du kích chiến đã có từ thời xưa không phải do Mao Trạch Ðông hay Võ Nguyên Giáp nghĩ ra, trong Chiến Tranh Và Hoà Bình, đoạn nói về cuộc truy kích quân Pháp trên đường tháo chạy về nước 1812 quân Nga áp dụng một chiến thuật mới: người lính phân tán, khi gặp địch mạnh thì chạy, tấn công khi có cơ hội, đó là du kích chiến. Chiến tranh du kích không theo qui luật chiến tranh qui ước, qui luật nói bên nào mạnh đông thì sẽ thắng. Quân Nga phân từng đội nhỏ vì tinh thần rất cao, đánh những đòn nặng vào Pháp. Những đội quân du kích đã tiệu diệt đạo quân lớn thành từng mảng, có đội trang bị cả pháo binh, có đội chỉ có kỵ binh.

Những năm 1959, 60, 61… VC dùng vũ khí bén nhọn dao găm, mã tấu, dần dần họ tiến lên vũ trang súng đạn và tới vũ khí cá nhân tối tân như AK, B-40 và sau cùng tiến tới vũ khí nặng như chiến xa, đại bác bắt đầu từ thập niên 70. Những năm 1960, 61, 62 họ áp dụng du kích chiến, từ giữa 1965 khi bộ đội chính qui xâm nhập miền Nam họ áp dụng cả du kích và qui ước và từ thập niên 70 BV được CS quốc tế viện trợ nhiều vũ khí tối tân xe tăng đại bác, hoả tiễn thì chủ yếu là qui ước, vả lại sau trận Mậu Thân Mặt Trận Giải Phóng bị thiệt hại rất nặng chỉ còn khoảng hai chục ngàn người.

Tiền pháo hậu xung là chiến thuật CS thường áp dụng ngoài mặt trận sự thực không phải do họ nghĩ ra mà đã có từ thời Napoléon, vị đại đế này đã thành công huy hoàng trước đây đó là tập trung nhiều đại bác pháo kích vào một địa điểm, cho trừ bị quân phá vỡ phòng tuyến địch, cuối cùng cho kỵ binh tiến đánh chiếm mục tiêu. Chiến thuật của CS như ta đã thấy không có gì mới lạ trong cuộc chiến 1959-1975, VNCH và đồng minh đã thắng được nhiều trận nhờ chiến thuật và ưu thế về hoả lực nhưng sau cùng thua cuộc vì chiến lược sai.

Nếu nói về sự thiệt hại nhân mạng thì tổn thất của BV + VC gấp năm (5) lần tổn thất của Mỹ + VNCH như vậy coi như phía VNCH và đồng minh thắng vì bên nào chết nhiều coi như thua. Nếu nói về lãnh thổ thì BV thắng vì họ cuối cùng đã chiếm được đất.

Trên đây cũng chỉ là lối nhìn, giải thích về nguyên nhân sự kết thúc của cuộc chiến tranh Quốc Cộng đã qua, cuộc chiến dài nhất thế kỷ này đã có nhiều lối nhìn khác nhau từ nhiều phía Mỹ, VNCH, CS Hà Nội… chưa hẳn lối nhìn nào đã đúng. Mọi sự giải thích về nguyên nhân, hậu quả cũng chỉ là tương đối.



Tài Liệu Tham Khảo.


Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà,Vietnambibliography, 2003.Nguyễn Ðức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.Nguyễn Ðức Phương: Những Trận Ðánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Ðại Nam.Ðoàn Thêm: 1969 Việc Từng Ngày, Xuân Thu.Staline: Nguyên Lý Căn Bản Của Chủ Nghĩa Lénine, in 1977, Sàigòn .Nguyễn Tiến Hưng: Khi Ðồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh, 2005.Văn Tiến Dũng: Ðại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HàNội 2005.Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới, Texas 1990.Léon Tolstoi: La Guerre et la Paix, Traduction nouvelle par Elisabeth Guertik, Préface de Brice Parain, Livre de poche, Paris 1963.Leo Tostoy: War And Peace, The Maude translation, W.W Norton & Company, New York-London, 1966Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing.The Word Almanac Of The Viet Nam War: John S. Bowman - General Editor, A Bison-book 1958.Stanley Karnow: Viet Nam, A History, A Penguin Books 1991.Marilyn B. Yuong, John J. Fitzgerald, A. Tom Grunfeld: The Viet Nam War, A History in documents, Oxford University Press 2002.Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam: Người Việt Dallas 21-6-2006 .Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Ðỗ Cung dịch, Người Việt Dallas số 26-4-2006.Trung Tướng Lữ Lan: Cuộc Chiến Ba Mươi Năm Nhìn Lại Từ Ðầu, Sài Gòn nhỏ-Dallas-28-4-2006.