Sunday, October 11, 2009

Mùa Hè Đỏ Lửa I – Phi Vụ Mở Màn

Vài lời của người viết:

Vùng cao nguyên bỗng dưng sôi động, những cánh chim sắt của phi đoàn Thần Tượng bất chợt bị cuốn lốc trong cơn bão của trận chiến bất ngờ. Những ngày hành quân liên tục trên những địa danh xa lạ chưa từng biết đến của vùng rừng núi địa đầu giới tuyến đã gây nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng một người trai thời loạn. Tôi xin ghi lại đây một vài hình ảnh, kỷ niệm của những tháng ngày dài rong ruổi trên chiến trường đẫm máu, cũng như những phi vụ kinh hoàng mà những người chiến sĩ Không Quân đã âm thầm lặng lẽ ra đi không ai nhắc nhở.

Một chút gì để nhớ đến những cánh chim Thần Tượng gãy cánh trên vòm trời Cao Nguyên Miền Tây:
Trung Úy Phạm Thành Rinh,
Thiếu Úy Võ Diện,
Trung Úy Nguyễn Tường Vân,
Trung Úy Trần văn Long
cùng các mê vô xạ thủ Linh, Thông, Lan, Phiệt…



Mở Đầu:
Để độc giả dễ dàng theo dõi những diễn tiến cũng như địa danh trong bài viết tôi xin khái lược về mặt trận vùng cao nguyên 1972. Trận chiến khốc liệt nhất trong chiến trường Việt Nam đã xảy ra trong những tuần lễ cuối mùa Xuân năm 72 kéo dài qua những tháng mùa Hè và đã được tác giả Phan Nhật Nam mô tả trong tác phẩm bi hùng tráng “Mùa Hè Đỏ Lửa”, mặt trận được gọi là “Easter Offensive”, danh từ của đồng minh Hoa Kỳ. Đó là trận chiến khốc liệt, Cộng quân cố thu hết tàn lực để mở một chiến dịch tổng công kích cuối cùng trên toàn cõi miền Nam hy vọng đạt được một thắng lợi nhằm tạo áp lực lên bàn hội nghị hòa bình ở Paris.


Ba mặt trận đồng loạt đánh vào miền Nam:


- Chiến dịch Nguyển Huệ, mũi dùi số một hơn 30,000 quân Cộng Sản tràn qua sông Thạch Hản, tiến chiếm Quảng Trị, Thừa Thiên vùng I.


- Mặt trận B-2, miền Nam từ lãnh thổ Cam Bốt, mũi dùi thứ hai đánh thốc vào Lộc Ninh, Bình Long, chế ngự vùng III.


- Mặt trận B-3, mũi dùi thứ ba cắt ngang vùng II, nhắm vào Tân Cảnh, Kontum, Pleiku sau đó qua đường thung lũng Mật Khu An Lão, kéo xuống đồng bằng Bình Định, bởi hai Sư Đoàn tinh nhuệ của địch, Sư Đoàn Thép và Sư Đoàn Sao Vàng cùng Sư Đoàn F10 được yểm trợ bởi Lữ Đoàn chiến xa 203 và nhiều Trung Đoàn pháo binh.


Từ cuối tháng Giêng năm 1972, theo các nguồn tin tình báo, tù binh và hồi chánh, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ghi nhận có nhiều đơn vị Cộng Sản Bắc Việt từ Cam Bốt và Lào đã xâm nhập vào khu vực phía Bắc tỉnh Kontum. Đồng thời không thám của quân đội Hoa Kỳ cũng đã ghi nhận được những sự tập trung lớn của lực lượng Cộng Sản trong vùng thung lũng phía Tây Nam của Dak Tô, và Tây Bắc của thành phố Kontum. Kể từ khi được tin địch xuất hiện, các đơn vị không-kỵ và trực thăng võ trang Hoa kỳ đã nỗ lực thám sát và phát hiện được 6 lằn xích song hành và nhiều chiến xa Bắc Việt tại phía Đông căn cứ 609 và thung lũng Plei Trap, nằm về phía Tây của Rocket Ridge. Theo như dự đoán của bộ chỉ huy Quân Đoàn II và những cố vấn Hoa Kỳ thì địch có thể sẽ tấn công Cao Nguyên vào mùa khô.




Quân Đoàn II bắt đầu tăng cường phòng thủ Kontum và Pleiku. Bộ Tư lệnh tiền phương Sư Đoàn 22 được dời từ Bình Định lên Tân Cảnh-Dakto. Sư Đoàn 22 bộ binh gồm có 4 Trung Đoàn 40, 41, 42, 47, Tư Lệnh Đại Tá Lê Đức Đạt, trách nhiệm vùng Tân Cảnh và Dak Tô II. Thiết Đoàn 19 Kỵ Binh cũng được tăng cường đến Tân Cảnh.


Sư Đoàn 23 gồm 3 Trung Đoàn 44, 45, 53, tư Lệnh Đại Tá Lý Tòng Bá, từ Ban Mê Thuột được tăng viện thay thế Sư Đoàn 22 bị tan rã sau khi căn cứ hỏa lực Tân Cảnh bị thất thủ, để bảo vệ Kontum, đã lập phòng tuyến từ phía Bắc thành phố từ Đông sang Tây.


Lữ Đoàn 2 Dù được tăng cường cho Quân Đoàn II, chịu trách nhiệm vòng đai phía tây Quốc Lộ 14, đóng trên những cao điểm. Đóng dọc theo biên giới có 11 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân biên phòng, chịu trách nhiệm căn cứ Ben Het, ngay ngã ba biên giới, thường gọi là Tam Biên, cùng với tiền đồn Polei Kleng phía tây Kontum khoảng 20 cây số.


Riêng dãy Rocket Ridge là một dãy cao điểm chạy dài từ Bắc xuống Nam, nằm dọc theo phía tây Quốc Lộ 14 khoảng 12 cây số, tọa lạc hầu như ở giữa Tân Cảnh và Kontum, nơi những căn cứ hỏa lực mang tên Tiền Đồn Sáu, Tiền Đồn Năm, căn cứ Yankee, Charlie và Hotel đã nổi danh để đón nhận một định mệnh tàn khốc trong những trận chiến rực lửa mùa Hè 72. Đặc biệt nhất là căn cứ Charlie, qua bài ca bất hủ của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, “Người ở lại Charlie” đã ca tụng và tiếc thương cái chết của người anh hùng Tiểu Đoàn trưởng TĐ/11 Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, Tr/T Trần Đình Bảo.


Phi Vụ Mở Màn: Căn Cứ Hỏa Lực, Tiền Đồn Sáu


- Oành…Oành..
Sau hai tiếng nổ như long trời lở đất, tôi mở choàng mắt dậy, chưa tỉnh hồn không biết mình đang ở đâu, tôi phóng đại về hướng trước mặt, được chừng vài chục bước tôi ngừng lại thấy mình đứng chơ vơ giữa phi đạo nhựa đường đen, hơi nóng bốc lên hừng hực, xung quanh không một bóng người. Biết mình vừa “bị tẩu hỏa nhập ma”, tôi vội vàng quay trở lại.


- Oành…
- Ê… ê… Hướng này nè, mẹ, thằng này nó khùng rồi… Tôi nghe tiếng la to phía sau lưng.


- Oành…
Một trái pháo khác nữa nổ ngay đầu phi đạo. Tôi rụt đầu “né” những mảnh đạn pháo đang bay xé trong không gian. Người trần trùng trục, chiếc áo bay “nomex” màu cứt ngựa “fermeture” kéo tới rốn cỡi ra ngang thắt lưng, hai cánh tay áo quấn vòng ngang bụng cột gút, tôi khom người phóng nước đại xuyên qua giữa khoảng trống của mấy chiếc trực thăng tắt máy đậu dọc theo phi đạo, hai tay khư khư ôm lấy quần cho khỏi tụt.


- Ê, tao đây này…lại đây mau lên…
Thấy Tr/u Thành “râu” đang ngồi trong hố đất cách mấy chục thước, thò đầu lên, nhe hàm răng trắng bóc dưới bộ râu đen, tôi đổi hướng. Cái hố cá nhân đào vừa đủ cho một người, Thành đang ép sát chừa chỗ cho tôi, nhanh như cắt tôi phóng mình xuống đưa cả hai chân vào.


- Mẹ, mày ngủ mơ sao mà khùng thế…Tao thấy mày ở trần tay ôm quần chạy khơi khơi giữa phi đạo giống như thằng điên, tụi nó cười quá trời. Vừa nói xong Thành cười rộ.


Bây giờ tôi có phần hoàn hồn, tim đã bớt đập, tôi cố lấy giọng bình tỉnh đánh trống lảng cho bớt “quê”:


- Bố khỉ, tụi nó pháo dữ quá, đón tiếp phi hành đoàn 215 kiểu này thì chết mẹ mình rồi. Chân ướt chân ráo lên đây gặp cảnh này mất vui quá.


- Không biết tụi mình đáp đây làm cái đếch gì ở đây mà chờ lâu thế, nằm chờ để “ăn” pháo kích toi mạng. Thành “râu” rặc giọng Bắc kỳ, có vẻ sốt ruột.


- Mình đáp lúc hai giờ trưa phải không mày? Chờ cả tiếng đồng hồ rồi đó. Nói xong tôi đưa tay lên xem giờ vừa quẹt lau mồ hôi đổ hột trên mặt vừa phân bua cái vụ chạy “lộn sòng” lúc nãy:


- Tối hôm qua ở Phan Thiết đi chơi khuya mới về, lúc nãy chờ buồn ngủ quá tao chui ra sau tàu nằm thiếp đi ai dè tụi nó pháo tao làm tao giật cả mình tỉnh dậy không biết trời đất gì.


- Oành…Oành…hai trái pháo nổ gần đầu phi đạo, những cụm khói đen bốc lên lẫn bụi mù.


- Dzọt..dzọt… mày…Tôi nhảy phóc lên khỏi miệng hố vừa chạy vừa mở gút tay áo buộc ngang bụng xỏ tay hai tay kéo áo bay lên người. Vừa đến gần chiếc trực thăng võ trang đang đậu, mấy anh xạ thủ đã nai nịt sẳn sàng, tôi nhảy vọt lên ghế bay, không kịp bận áo giáp, cầm chiếc helmet treo sau lưng đội vội vào, kéo hai sợi giây “seatbelt” buộc vào bụng xong, tôi cho con tàu quay máy. 


Tiếng kêu O… O… đồng loạt của những chiếc trực thăng khác đang đậu gần đó vang lên trong bầu không khí oi ả. Những cánh quạt trực thăng uể oải lười biếng chuyển mình chầm chậm rồi nhanh lên dần. Tôi nóng ruột vặn tay ga, chiếc kim RPM ( rotation per minute ) trên đồng hồ tăng vọt, xong tôi kéo vội cần cao độ, con tàu đầy ắp đạn và rockets nặng nề rùng mình rời mặt đất khô nóng bỏng. Trước mặt những chiếc trực thăng cất cánh bay tứ tán loạn cào cào, không đội hình hàng ngũ…

Con tàu đã lên cao, nhìn xuống phi trường Phượng Hoàng hoang vắng nhỏ dần dưới ánh nắng mặt trời đang nung đốt, lác đác một vài trái đạn nổ tung lên những cụm khói nhỏ đen xám lẫn bụi đỏ…


- Hợp đoàn bay vòng chờ, hết pháo tụi mình xuống đáp lại nghe rõ. Chiếc C@C nhắc nhở. Năm chiếc trực thăng chúng tôi cùng với những chiếc của Không Kỵ Hoa Kỳ như một đàn diều đông đảo bay lượn trên bầu trời hanh nắng.


- Charlie đây Hổ… ( Mãnh Hổ tên gọi trực thăng võ trang 215), mình đang chờ gì ở đây vậy? Tôi tò mò hỏi.


- Sĩ quan liên lạc của quân bạn đang trên đường tới phi trường, mình sẽ làm phi vụ tiếp tế cho căn cứ hỏa lực vừa bị địch tấn công tối hôm qua. Đ/u Đức trả lời.


Ngày hôm kia tôi cùng phi đội 215 được chỉ thị đi biệt phái ở Phan Thiết một tuần lễ. Nghe tin đi Phan Thiết anh em tranh nhau tình nguyện nhất là trong biệt đội có mặt Tr/u Thành, cháu của ngài Đại Tá Tỉnh Trưởng. Anh ta về đó như “Hổ” về rừng, ở trên trời anh là “Hổ Hai” bay theo đuôi Hổ Một, nhưng ở dưới đất Phan Thiết anh là C@C dẫn đầu phi đội đi “bay….bướm”. 


Phi hành đoàn vừa đáp xuống ngay tỉnh đường đã có xe chờ sẵn mời đi ăn “điểm xấm” hay hủ tiếu mì phở, buổi trưa xe Jeep đón đưa đi ăn cơm tại những nhà hàng Tàu sang trọng, ăn xong còn thêm gói thuốc lá dắt lưng. Trong thời gian tại đó chúng tôi chỉ túc trực ứng chiến tại cư xá tỉnh dành cho khách vãng lai, phòng ốc khang trang, ai rảnh muốn đi phố uống cà phê, cà pháo hay thụt bi-da chỉ việc leo lên xe jeep chừng vài phút là tới. Ở tại thành phố này có những quán nước sát bên bờ sông cây râm bóng mát rất hữu tình, anh em phi hành đoàn “xum xoe” trong bộ đồ bay súng ống “lỏng dõng” thường ra ngồi đó để ngắm mấy em đi qua đi lại. Đó là những khoảng thời gian nhàn nhã “vui thú điền viên” khó kiếm trong thời buổi chiến chinh.

Sáng ngày hôm nay sau khi biệt đội đi ăn trở về thì nhận được tin “sét đánh ngang tai”, tất cả hợp đoàn phải thu xếp hành trang Pleiku trực chỉ, thời gian biệt phái sẽ cho biết sau. Tôi linh cảm đây là chuyện chẳng lành, một mặt trận nào đã xảy nữa đây? Không có sự lựa chọn tôi về phòng thu xếp hành trang, trong lòng ca câu “thân trai mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu” rồi theo chân hợp đoàn cất cánh. 


Trên vòm trời Phan Thiết, bầu không khí thoang thoảng phảng phất mùi mắm ruốc thum thủm từ hàng trăm hãng sản xuất nước mắm bốc lên, tôi nghiêng đầu nhìn xuống những xóm làng chài lưới lúp xúp mái ngói đỏ cùng những mái tôn chấp chóa kế hàng dừa xanh sau bãi cát trắng vòng cung, hàng trăm chiếc thuyền đánh cá neo san sát trong vùng vịnh nhỏ. Ở đầu bãi một ngôi nhà gạch màu vàng nhạt nằm trên ngọn đồi thấp cô quạnh sát mé nước, trên cao trông như một “lô cốt” tí tẹo, đó là “Lầu ông Hoàng”, nơi mà nhà thơ Hàn mặc Tử đã nhiều lần dắt cô Mộng Cầm ra hóng mát. 

Điếu thuốc cháy dở trên môi, sợi khói trắng quyện vào mắt cay xè, tôi chắt lưỡi luyến tiếc trở lại với thực tại, trước mặt những chiếc trực thăng chổng mông nối đuôi nhấp nhô lên xuống.

Năm con chim sắt bắt đầu hướng về vùng lửa đạn, để lại sau lưng thành phố yên bình … Theo chỉ thị mới nhận được trên tần số cho biết chúng tôi phải bay lên đáp phi trường Phượng Hoàng cạnh thị xã Tân Cảnh, tỉnh Kontum để nhận lệnh hành quân. Sau hơn hai tiếng rưỡi đồng hồ, bay đáp lấy xăng tại phi trường Cù Hanh, Pleiku, hợp đoàn gần đến điểm hẹn. 


Trên cao độ hai ngàn bộ, phi trường Phượng Hoàng thoáng hiện trong bầu không khí rực nắng oi ả. Hợp đoàn giảm cao độ nối đuôi đáp xuống dọc theo một phi đạo vừa đủ dài cho những phi cơ nhẹ đáp. Gọi là phi trường nhưng thật ra chỉ là một dải đất rộng nằm trơ trụi trên một địa thế cao và bằng phẳng, xung quanh toàn cỏ dại vàng cháy, không một công sự hay nhà cửa nào cả, xa xa chỉ thấy hàng rào kẽm gai vây bọc. Năm chiếc trực thăng chầm chậm nối đuôi nhau lướt trên mặt nhựa đường đen tháng năm đã loang lổ. Phía bên phải phi đạo đã có bảy tám chiếc trực thăng đậu hàng dọc tắt máy cùng hai chiếc gunships Cobra mình dẹp lép như con cá chình, mang đầy nhóc rockets dữ dằn. Đơn vị Lữ Đoàn Không Kỵ của người bạn đồng minh Hoa Kỳ đã có mặt tại đây không biết từ bao lâu. Tất cả hợp đoàn tắt máy chờ, tôi chui ra sau khoang tàu nằm và đánh một giấc ngủ say sưa…

Bay vòng vòng trên bầu trời địa đầu giới tuyến, chờ cơn pháo ngưng, tôi ngả người vào lưng ghế nghỉ mệt, giấc ngủ vừa qua tuy ngắn ngủi nhưng cũng giúp tôi lấy lại sức lực sau chuyến bay dài từ Phan Thiết. Trong mơ hồ tôi suy nghĩ vẫn vơ tới những cuộc hành quân đã qua, yểm trợ bốc quân, đổ viễn thám, tiếp tế, cuộc hành quân hôm nay chắc cũng không khác gì những ngày tháng trước. Nhưng tôi đã không ngờ rằng cuộc diện bây giờ đã đổi thay, những sôi động đã ầm thầm biến chuyển ngoài sự hiểu biết cũa một hoa tiêu tầm thường. 


Phi vụ ngày hôm nay sẽ là một phi vụ mở màn cho những ngày tháng tới đối đầu với một trận chiến hoàn toàn khác hẳn những gì tôi đã kinh qua. Tôi sắp bước vào một trận chiến lịch sử, một trận chiến kinh hoàng khốc liệt nhất trong chiến trường từ khi bọn Cộng Sản khởi động xâm lấn miền Nam. Trận chiến được mang danh là “Mùa Hè Đỏ Lửa” hay là “Trận chiến một trăm ngày”. Tôi sẽ là chứng nhân sống cho những ngày tháng sôi động, những cuộc giao tranh, thắng bại, dành nhau từng tấc đất, con tàu bốc cháy nổ tung trên không trung hay ngay giữa phi đạo, những bạn bè thân thương gãy cánh, lìa đàn, những giây phút căng thẳng thần kinh đến tột độ, những phi vụ mạng sống như chỉ mành treo chuông, những trận đại pháo ào ạt như mưa rào, như thác đổ, những xác người tan nát, cháy nám… Một mặt trận địch đã dốc hết toàn lực, khả năng gần như đã kiệt quệ để đánh một ván bài cuối cùng dứt điểm mục tiêu mà chúng đã kiên trì nổ lực bao năm qua, với sự hy sinh hàng trăm ngàn, hàng triệu sanh linh vô tội đã bị chúng lôi cuốn vào cuộc chiến tranh điên rồ này.

Có lẽ trận pháo mở màn để chào mừng phi đội 215 đã chấm dứt, sau mười lăm phút lòng vòng trên không, chúng tôi được lệnh đáp trở lại phi trường Phượng Hoàng. Tắt máy xong, tôi bước xuống đi nhanh về hướng Đ/u Đức đang đứng nói chuyện với Đ/u Vỹ, bay chiếc chở quân. Thấy tôi Đ/u Đức cất tiếng rặt giọng Trung kỳ:


- Hổ, hồi này mày làm gì mà chạy ra giữa phi đạo vậy, chưa ăn mảnh pháo là may đó. Nói xong anh cười thật tươi đưa hàm răng trắng đều.


Đ/u Đức người cao ráo, nở nang, khuôn mặt chữ điền, rất đẹp trai, chắc có lẽ đã có nhiều em theo chết mê mệt. Từ ngày về với Thần Tượng đến giờ phút này tôi đã bay nhiều phi vụ võ trang dưới sự điều động của vị niên trưởng này. Chung chia rất nhiều kỷ niệm trong thời gian biệt phái Phù Cát, Pleiku, Ban Mê Thuột, Phan Rang, Phan Thiết… Chúng tôi gần bên nhau, cùng chung giới tuyến, chia sẻ những niềm vui lớn nhỏ, cũng như gian nguy cực khổ từ đó đã nẩy sinh những tình nghĩa vô cùng sâu đậm.


- Sa .o m.à..y tỉnh ngu..ủ chư.a đó… Đại uý Vỹ đứng kế lên tiếng chọc quê tôi trong giọng nói nhừa nhựa ê a rặc tiếng Bắc Nghệ Tỉnh nghe buồn cười quá… 


Tại phi đoàn anh em thường gọi anh là “Cụ Vỹ”, vì thân hình thấp thấp tướng đi hơi lom khom cọng lại thêm giọng nói khàn khàn kéo dài. “Cụ Vỹ” là một đề tài tiếu lâm cho anh em chọc ghẹo, con người vui vẻ xuề xòa nhưng đôi khi hơi nóng tánh. Tôi ưa nói đùa với bạn bè trong những lúc họp mặt, “Nếu tao vào vùng “hot” nghe “cụ Vỹ” kêu tần số báo cáo có phòng không của địch, chờ cho “cụ” nói xong thì tụi nó đã bắn tao banh xác rồi”. 

Một giai thoại với liên hệ tới “Cụ Vỹ” nghĩ tới tôi vẫn còn “sượng sùng”. Lúc còn chân ướt chân ráo làm lính mới tò te của phi đoàn, một buổi sáng đang đứng mua một ít đồ lặt vặt trên đường Nguyễn Hoàng cạnh chợ Xóm Mới Nha Trang, tôi vô tình gặp một cô bạn gái đi cùng với một người bạn đi ngang. Sau khi tay bắt mặt mừng, chào hỏi hai ba câu xong, cô bạn gái tôi hỏi, “Anh ở phi đoàn Thần Tượng có biết anh Vỹ không?” 

Tôi nhanh nhẩu, ra điều sành sỏi: ” Biết chớ, Trung Úy Trần thế Vỹ ai mà không biết, tụi này kêu là “cụ Vỹ già” đó mà…”

Nghe tôi nói xong bạn tôi mỉm cười, xoay qua chỉ cô gái tóc bỏ ngang vai với khuôn mặt trái xoan dễ thương, chưa ngoài hai mươi đang đứng kế bên nãy giờ im lặng :”Xin giới thiệu với anh đây là ” fiancée ” của anh Vỹ”. 

Tai lùng bùng, người đứng sượng trân thiếu điều muốn độn thổ… Tôi gật đầu chào, miệng lí nhí nói không ra hơi: ” Dạ…dạ…chào chị..”. 

Một thời gian sau đó, một bữa thằng bạn thân gặp tôi ở phi đoàn, anh ta kéo tôi ra một góc phòng ghé vào tai tôi thì thầm nói nhỏ, ra điều đang tiết lộ một chuyện gì quan trọng:” Tao nói cho mày biết chuyện này, để mày cẩn thận, hôm qua không có mày đây tao nghe “Cụ Vỹ” tuyên bố trước mặt bá quan văn võ rằng, ” Tụi mày nói lại với thằng H., nó mà còn lạng quạng mời con đào tao đi ăn phở một lần nữa thì tao bắn bỏ mẹ nó…” 

Thật là oan ơi ông Địa, tôi chỉ gặp đào “cụ” có một lần đó thôi làm sao mà có cơ hội mời mọc, vả lại lúc đó tôi đang ở tình trạng “thặng dư” đào “dùng” không “kịp” đâu đến nỗi mà phải đi cửa hậu với người nhà.

Trong khi mọi người đang đứng đấu láo thì từ xa bụi đỏ tung mù chiếc xe cam nhông cùng chiếc xe Jeep phom phom chạy đến. Chiếc Jeep dẫn đầu ngừng ngay bên hông tàu Charlie, vị Đại Úy Dù, đeo giây “ba chạc”, đầu đội nón sắt cùng người phụ tá vội vã nhảy xuống xe, trên khuôn mặt lộ vẻ khẩn trương.


- Chào quý vị. Viên Đại Úy đưa tay lên chào theo cung cách nhà binh, xong bắt tay từng người:


- Chào Đại Úy, sao giờ này mới đến, nằm chờ ở phi đạo bị tụi nó pháo quá…Đ/u Đức lên tiếng.


- Xin lỗi quý vị phi hành đoàn nghe, tôi phải chờ ở phòng hành quân lấy thêm chi tiết và điều động xin vài phi tuần khu trục yểm trợ xong rồi mới ra đây được.


Trong tay cầm mấy bản đồ, vị Đại Úy đi vòng phía trước chiếc xe jeep, trải rộng tấm bản đồ trên đầu xe xong đi ngay vào vấn đề:


- Tối hôm qua căn cứ hỏa lực tiền đồn Sáu đã bị địch pháo kích cả hàng trăm trái hỏa tiễn và tấn công nhiều đợt tới tấp. Quân bạn hiện đang ở tình trạng nguy ngập cần tiếp tế gấp đạn dược, nước uống gấp và chở một số thương binh về.


- Sao trực thăng Mỹ ở đây làm gì mà anh không nhờ họ vậy Đại Úy? Đ/u Đức chen vào.


- Tụi tôi đã làm việc với họ sáng hôm nay rồi, nhưng khi vào đáp bị bắn rát quá nên họ quay trở lại từ chối phi vụ. Tôi đã xin nhiều phi tuần khu trục dội bom yểm trợ, nhưng địch bám sát quân bạn quá gần nên khó lòng. Cứ điểm này có một vị trí chiến lược rất quan trọng, bất cứ giá nào chúng tôi cũng phải giữ không để mất được, mong quý vị giúp cho một tay.
Vây quanh đầu xe jeep, Đ/u Đức cùng Đ/u Vỹ và mấy hoa tiêu khác chăm chú nhìn vào tấm bản đồ màu xanh nhạt, những vòng tròn cao độ vẽ chằng chịt, cùng những nét bút màu đen đỏ.


- Đây là căn cứ hỏa lực Sáu hiện thời đang bị địch bao vây áp đảo nặng- viên Đại Úy chỉ vào một vòng tròn đỏ- ngay bây giờ chỉ cần hai chuyến chở đồ tiếp tế và chở một số thương binh về là xong ngày hôm nay. Tôi sẽ cho vài người lính ngồi theo tàu để phụ. Quý vị có thể nhìn thấy rõ ràng Tiền Đồn Sáu từ đây.


Nói xong anh quay người lại chỉ tay về hướng Nam của phi trường. Xa khoảng chừng năm bảy cây số rặng núi đứng sừng sững nhô cao trên đồng bằng cao nguyên. Dưới ánh nắng chói chan, những ngọn núi đỉnh cao trọc màu xanh cỏ úa vàng. Trên bản đồ tôi ghi nhận những vòng cao độ vẽ hình của một rặng núi hình cánh cung trên đó những vòng đỏ có ghi chú những chữ 6, 5, Y, C, D, H, tôi hỏi:


- Đây là những tiền đồn? Tôi chỉ vào nhưng vòng tròn kế tiếp nhau…


- Đúng vậy…kế cận Tiền Đồn Sáu xuôi theo đỉnh núi về phía Nam là Tiền Đồn Năm rồi Yankee, Charlie, Delta và cuối cùng là Hotel, còn rặng núi này Mỹ họ kêu là Rocket Ridge. Tất cả căn cứ hỏa lực trên dãy núi Ridge này thuộc trách nhiệm của Lữ Đoàn II nhảy dù, bộ chỉ huy đóng tại Võ Định. Đó là những địa danh mới được đặt tên của những căn cứ hỏa lực nằm trên những chuỗi cao độ chập chùng vùng trên dãy núi Rocket Ridge khô cằn sỏi đá, nhưng những ngày tháng tới đây sẽ là những là những địa danh đi vào lịch sử vì những trận đánh bạo tàn, khủng khiếp, dằn co, dành giựt từng tấc đất, từng giao thông hào, máu đổ thành suối…


Mọi người đã sẵn sàng. Chiếc C@C cất cánh trước, tôi dẫn chiếc gun số hai của Thành “râu” theo sau. Chiếc hai chiếc slicks đang được quân bạn “load” lên sàn tàu những thùng đạn bằng gỗ và những ống sắt to đựng đạn đại bác bên trong chứa nước uống từ chiếc xe cam nhông đậu kế bên.


Chỉ trong vòng năm ba phút là hai chiếc trực thăng võ trang đã ở trên đầu căn cứ hỏa lực. Rặng Rocket Ridge hơi cong cong hình cánh cung, đầu cực Bắc cách biên giới Lào-Việt-Miên cỡ 15 cây số, chạy đến gần căn cứ Tân Cảnh rồi bẻ cong kéo dài về phía Nam, song song với QL 14, cuối cùng dừng lại tại phía Tây Kontum, khoảng chừng 20 cây số.


Trên cao độ cách đỉnh núi chừng ngàn bộ tôi nhìn xuống Tiền Đồn Sáu, xa xa về phía Nam là Tiền Đồn Năm, Yankee, Charlie, Delta sau cùng là Hotel qua làn hơi nóng mờ ẩn lung linh, nối tiếp nhau trên đỉnh núi của rặng Rocket Ridge.


Thận trọng bay vòng trên cao độ tôi quan sát phía bên dưới, Tiền đồn Sáu hình tam giác màu đất đỏ nằm chơ vơ trên đỉnh, ngay chính giữa trại, lá cờ vàng ba sọc đỏ nhỏ xíu phất phơ trước gió, xung quanh đồn triền núi dựng đứng, rừng xanh mọc răng cưa đến ngang lưng chừng núi là ngừng lại, tiếp nối tới đỉnh chỉ là cỏ vàng cháy xém… 
Những vết bom đạn pháo kích lỗ chỗ khắp nơi, những công sự chiến đấu vỡ nát không nhận ra hình thù, còn ngun ngún khói bốc, hai khẩu đại bác 105 ly màu đen nổi bật lên trên nền đất đỏ. Sát về phía Bắc của đồn, gần ngay hàng rào phòng thủ là một vòng tròn bãi đáp của trực thăng, ở giữa một chữ H sơn màu trắng còn nhận ra lờ mờ. Tất cả là hình ảnh của một bãi chiến trường còn phảng phất mùi tử khí, hiện đang yên nghĩ trong sự căn thẳng, rình rập, đe dọa….

- Lead đây Charlie, hai bạn cất cánh lên là vừa rồi, đáp về hướng Bắc nghe...

Ngồi trên tàu tôi nhìn về hướng phi trường Phượng Hoàng, hai chiếc trực thăng chở đồ tiếp tế nhỏ như hai con kiến li ti chạy dài trên phi đạo.


- Hổ cẩn thận…sáng nay trực thăng Mỹ bị “ground fire” chạy rồi đó. Charlie nhắc nhở.


- Chiếc lead vào trước, chiếc số hai “hold” trên trời chờ. Đ/u Đức chỉ thị cho hai chiếc “slicks”.


- Cha..a..arlie, đây lead.. go..ọi, đa..ang… va…aò đây , H..ổ…Hô..ổ… mày co.o..v.er cho kỹ gi..ù..m chút nghe…


Tiếng nói nhừa nhựa kéo lê thê bằng tiếng Bắc Nghệ Tịnh nghe trên tần số trong giây phút căng thẳng này, tôi vẫn không nín được cười… “Cụ Vỹ” đã bắt đầu vào trục đáp, tôi cho con tàu bay bên cánh phải trên cao phía sau, chiếc gun số hai của Thành “râu” kèm theo bên cánh trái. Chiếc trực thăng từ từ xuống cao độ, Tiền Đồn Sáu phơi bày trước mặt…


- Le..ad đa..ang ở “f i…n..a..l”, H..ổ…H…ổ…th.e.o sát ngh e.e.e…” Ở đàng sau nhìn xuống chiếc lead đang lơ lửng đưa bụng trên vòng vây vô hình của địch. Bỗng ở đâu đó, tôi nghe vọng tiếng “cóc…cóc…cóc…”, âm thanh quen thuộc của súng AK-47.
- Ơ…ơ… H..ô..ổ, ơ..ơ…tụi n..ó bắn tao…Trong tần số tiếng “cụ Vỹ” la. Lần này tiếng “cóc…cóc..cóc…cóc…cóc….” nổ tràng dài như bắp rang…
- Oành…Oành…Hai trái pháo rớt trong vòng rào phòng thủ, kế khẩu đại bác 105 ly, bụi đỏ lẫn khói đen bay tung lên.
- Pháo kích, pháo kích. Tôi la lớn…Go around…Go around… Chiếc lead cắm đầu, đuôi tàu chổng lên gần như dựng đứng lài xuống chân núi trước mặt. Tức thời tôi bấm nút, những trái rockets thi nhau lao xuống chung quanh chu vi hàng rào, nổ lốp đốp tung bụi…Bên trái thằng Hổ hai đang tuôn những lằn đạn lửa minigun vung vãi khắp nơi.


- Lead, lead, đây Charlie, Vỹ, anh OK không?…Cho biết tình trạng ?…


- Để tô..i ch.e..ck…Sau vài giây im lặng tôi nghe tiếp…Char..li..e..đồng h..ồ…bình thư..ờng chắc khô.ô..ng s…a….o? “Cụ Vỹ” lè nhè dứt đoạn trên tần số.


Tất cả hợp đoàn bay vòng chờ trên cao.


- Lead, ráng giúp một lần nữa đi. Quân bạn đề nghị mình bay “low level” ngang bãi, để lính đạp đồ xuống, đừng đáp nghe, nghe rõ trả lời… tình trạng khẩn trương lắm, tối nay không có đủ đạn dược, đồn sẽ bị “over run “…ráng giúp họ nghe lead. Số hai, bạn vào trước đi, để cho lead nghỉ sẽ vào chuyến sau.
Trong tần số, tôi nghe chiếc số hai trả lời cụt ngủn:


- Nghe năm…!!!


Chiếc số hai bay vòng chờ trên cao, bắt đầu vào “final”. Tất cả tần số im lặng theo dõi. Hai chiếc võ trang bay kè phía sau. Chiếc số hai xuống nhanh giảm dần tốc độ rồi tiếp tục bay chầm chậm lướt trên đầu mặt đất lổ chổ hố pháo kích, là sát trên hai khẩu 105 ly, trên cao nhìn xuyên qua cánh quạt quay chấp chóa, những thùng đạn gỗ trăng trắng vàng cùng những ống nước màu rêu nhỏ xíu được đạp vội vã xuống bãi, rơi vung vãi khắp mặt đất trong vòng rào. Xong nhiệm vụ, con tàu trống nhẹ cắm đầu vương mình nhanh lên không trung. Trên cao chiếc C@C vòng vòng quan sát, tiếng Đ/u Đức la to:


- Hai…hai…, sao bạn không chờ chở thương binh ở bãi.


- Tôi đâu có đáp đâu mà bốc họ được, mà tôi không thấy ai cả, họ núp trong công sự tôi không thấy…để chuyến sau đi…


- Thôi được, bạn về đáp Phượng Hoàng “load” một chuyến nữa, xong báo tôi biết.


Tiếng nói Th/đ có vẻ phấn khởi khi thấy đã đổ được một chuyến hàng cho quân bạn.


- Lead đâu rồi…vào đáp được rồi đó đó… Hổ ra đem vào đi...


Chiếc lead bây giờ có phần vững dạ hơn khi thấy chiếc số hai hoàn tất nhiệm vụ an toàn, vòng lại chuẩn bị hạ cao độ. Tôi bám theo sau, mắt láo liên đảo quanh chu vi đỉnh đồi hy vọng phát giác được vị trí nào khả nghi của địch. Kinh nghiệm tôi biết chắc địch đang chuẩn bị gờm súng chờ đợi con mồi mỏng manh chậm chạp này, để một chuyến tiếp tế vào an toàn đã làm chúng điên đầu, sôi máu. 


Mồ hôi rịn lấm tấm trên trán, tay tôi siết chặt cần lái, ngón tay để sẵn sàng trên nút bấm rocket. Con tàu của Đ/u Vỹ đang vào “final”, xuống thấp dần. Tôi nín thở theo dõi. Chỉ còn chừng vài chục bộ nữa là lead ở trên mặt đồn, chiếc trực thăng bay chậm là sát trên mặt những công sự, tôi nhìn thấy những người lính lấp ló trong khoang tàu đang chuẩn bị đạp những thùng đồ.

- Ground fire…Ground fire…tiếng la thất thanh trong tần số, không phải của Đ/u Vỹ mà tiếng của người hoa tiêu phụ.
Cùng lúc tôi nghe rõ ràng nhiều tiếng gõ từ nhiều phía: “Cóc…cóc…cóc..cóc…”. Những tiếng “Cóc…cóc…cóc” tiếp tục liên hồi.
Tôi bỗng nghe tiếng la chói lói của Đ/u Vỹ trên tần số:


- Á..á…ch.ế.t.. chê…ết…tô..ô..i rồi… Chỉ chừng đó rồi im bặt.
Như có một luồng điện chạy dọc theo xương sống, tai như nghe rõ từng tiếng đập thình thịch của trái tim trong lồng ngực, tôi nghiến răng hai tay siết chặt cần lái, mắt đổ lửa, ngón tay cái bấm liên tục vào nút đỏ… 
Xoẹt… xoẹt… xoẹt… Những trái rockets như những mũi tên lửa tranh nhau rời dàn phóng lao xuống triền núi trọc, nổ ầm...

Dưới thấp, chiếc trực thăng đang phơi mình trước những lằn đạn của địch, cắm đầu cất cánh lài xuống triền núi, những tiếng cóc cóc bắn vói theo…


- Lead, lead…nghe không trả lời!


Chiếc lead vẫn im bặt… Đ/u Đức la to:”Hai Hổ bay theo lead cover... Nghe rõ…”


Trong sự im lặng ngột ngạt căng thẳng, tôi kéo hết tốc lực cố bám theo chiếc lead.


- Lead đây Hổ, nghe không trả lời…


Vẫn im bặt trên tần số, chiếc lead hướng về phi trường Phượng Hoàng hạ thấp cao độ.


- Charlie gọi lead nghe không trả lời…


Tôi đã bắt kịp tàu lead, cặp sát bên hông tàu. Nghiêng đầu nhìn, qua khung cửa ngay ghế bay, trên tấm thép dày chắn đạn, tôi thấy lấp ló chiếc nón bay của “cụ Vỹ”…


- Hổ gọi, lead… trả lời.
Bỗng trên tần số, vang lên tiếng nói người hoa tiêu phụ:


- Charlie, lead bị bắn nhiều viên trúng tàu, hiện tôi đang chuẩn bị đáp… Charlie kêu xe cứu thương ra phi trường giùm…


Tôi cho con tàu đáp ngay sau đuôi tàu Đ/u Vỹ. Cánh quạt vẫn con quay vù vù, tôi mở cửa phóng xuống đất, trên đầu còn đội helmet, chạy nhanh về phía tàu lead. Trên sàn tàu của Đại Úy Vỹ một cảnh tượng hãi hùng, người lính bộ binh đi theo phụ nằm xoải hai tay, máu đỏ che gần hết cả khuôn mặt, đôi mắt vô hồn mở trừng trừng nhìn thẳng lên trần, trên sàn tàu máu lênh láng. 


Tôi ngoảnh mặt quay người lại. Đại Úy Vỹ vừa mở cửa bước xuống, máu đỏ tươi ướt đẫm trên ngực chiếc áo bay màu xám, người bước đi xiêu vẹo, khuôn mặt chưa hoàn hồn. Tôi hốt hoảng:

- Trời đất… chuyện gì vậy..? Tôi nói chưa dứt câu thì người hoa tiêu phụ mang lon Th/u vừa trên tàu bước xuống, trong giọng Nam kỳ đặc kẹo, anh ta chen vô:


- “Thầy Vỹ” OK, không sao đâu, máu của anh lính bộ bị bắn lúc nãy đó. Vừa nói anh vừa lấy tay sửa lại dây nịt đeo khẩu súng “rouleau” xệ xệ bên hông trông rất “phong độ”. 


Tôi nhìn người hoa tiêu mới trong cặp kính mát “Rayban”, cao ráo đẹp trai, đang kể lại với một giọng bình thản như không có gì xảy ra.

- Khi tôi nghe tụi nó bắn như bắp rang, biết không xong rồi, thế nào cũng ăn đạn, chạy đâu cho khỏi… Anh ta nói tiếp như đang kể lại một chuyện phim gay cấn nào đó, lúc tàu đang bay trên đồn sắp đạp hàng xuống đất, tôi nghe tụi nó bắn rần rần từ phía Đông của đồn, anh lính đang đứng khom khom sau ghế bay “thầy Vỹ” nhìn về phía trước “windshield”, bỗng đùng một cái anh ngã nguời về phía “cockpit”, ôm choàng lưng ghế Đại Úy, đầu gục trên vai “ông thầy” máu chảy ròng, tôi nghĩ chắc bị một viên vô đầu rồi. “Thầy Vỹ” kế bên có lẽ chưa hoàn hồn, đứng yên không nói gì nghe anh ta kể tiếp:


- Lúc té xuống tôi thấy tay anh ta nắm giựt đứt sợi giây intercom trên helmet của Đại Úy, bởi khi Charlie gọi, ổng không trả lời được là vậy…


Chăm chú lắng nghe, tôi quá đỗi ngạc nhiên khi không hề thấy người hoa tiêu mới này không hề tỏ một cảm xúc nào cả sau khi vừa trở về từ cõi chết. Vừa lúc người hoa tiêu trên tàu tôi đang bước tới, tôi ngoắc anh lại gần, xong bảo:


- Bạn thông báo với Charlie phi hành đoàn OK, sẽ check tàu và báo cáo chi tiết đầy đủ sau.


Xong tôi quay lại nhìn Đại Úy Vỹ, anh đang cúi đầu nhìn xuống chiếc áo bay bây giờ máu đã sậm màu:
- Mẹ…tiê..ên…sư cha..a chú..ng nó.., khô..ng biết giặt c..ó sạch máu..không đây? Ta..o đem the..o có hai bộ đồ, khô..ông biết co..òn ở đây bao la..âu… Đại Úy Vỹ vừa nói vừa cúi xuống nhìn vào chiếc áo bay đang bận trên người. Tôi không dấu được sự kinh ngạc:


-Trời đất ơi, “ông Thầy” ơi, chết sống đây không lo, lo chi bộ đồ bay giặt không sạch. 


Bỗng nghe tiếng trực thăng đang chém gió kêu “phành phạch” trên cao tôi ngững lên nhìn, chiếc Charlie bay vù nhanh ngang trên đầu phi đạo… Từ chổ chiếc xe cam nhông chở đạn, chiếc Jeep của bộ binh lăn bánh chạy đến ngừng lại kế chúng tôi, trên xe người lính Dù nhảy xuống nói:

- Đại Úy Đức bảo hợp đoàn cất cánh về Pleiku trước đi. Tàu ông phải đáp Võ Định thả người sẽ về sau.


Tôi quay người hướng về Tiền đồn Sáu nhìn, rặng núi bình thản phơi mình trong nắng chiều, trên cao hai chiếc khu trục cơ nhỏ tí đang vần vũ nhào lộn, xa mãi tít trên cao nữa ba chiếc pháo đài B-52 như ba chấm đen bay lặng lẽ trên vòm trời xanh kéo sau theo sau đuôi những đường khói trắng…



Vĩnh Hiếu _ Phi Đoàn 215, Thần Tượng

No comments: