Monday, October 19, 2009

Samurai ! Những trận không chiến... Chương XX - XXIII

CHƯƠNG XX

Ngày hôm sau, tôi bị bịnh tháo dạ trầm trọng. Tình trạng thể xác như vậy, tình trạng tinh thần của tôi cũng không hơn gì. Mất bốn mươi phi cơ vừa phi công chỉ trong một phi vụ khiến tôi choáng váng. Cuộc chiến đã xoay đủ một vòng của nó rồi.
Cơn bịnh tháo dạ đã tàn phá năng lực của tôi và đè bẹp tôi trên giường một tuần lễ. Sức khoẻ của tôi phục hồi chậm chạp.
Buổi chiều ngày 2 tháng Bảy, niềm phấn khởi lan tràn khắp doanh trại. Các liên lạc viên chạy lui chạy tới từ phòng truyền tin đến Bộ chỉ huy. Tôi chận một người để hỏi và được biết các hiệu thính viên của chúng tôi vừa chặn bắt được một số công điện chuyển đi tới tấp của đối phương. Mặc dù đa số đều được mã hoá, không thể nào đoán giải nổi, nhưng chúng tôi cũng biết những công điện nầy đã được chuyển đi từ các đơn vị địch không xa hòn đảo mấy.
Một cuộc tấn công sắp xảy ra. Điều nầy rõ rệt, và sẽ xảy ra rất sớm. Tất cả phi công trình diện Bộ chỉ huy để nhận lịnh. Tôi không được phép bay. Vị chỉ huy trưởng cảm thấy tôi còn yếu sức, khó thể nắm vững chiếc chiến đấu cơ của mình.
Sáng hôm sau, tất cả phi công ra sân bay vào lúc bốn giờ. Nhiều trinh sát cơ cất cánh tức khắc để dò tìm tung tích địch quân trên đại dương. Không có việc gì xảy ra trong suốt giờ kế đó. Tôi trở về phòng để ngủ thêm. Vào lúc sáu giờ, tiếng tù và nổi lên, phá tan sự yên tĩnh của hòn đảo, cho biết một cuộc tấn công của địch quân sắp xảy ra. Binh sỹ chạy ngang qua sân bay để đến các ụ súng, và bốn mươi chiến đấu cơ lướt ra các phi đạo để cất cánh nghinh chiến. Tôi bước ra sân bên ngoài doanh trại để coi diễn tiến.
Xa về phía Nam, có ít nhất 50 phi cơ xuất hiện, hướng thẳng về phía chúng tôi. Hellcat. Bốn mươi chiến đấu cơ Nhựt đang bay quần trên đầu, đã đổi hướng để mặt đâu mặt với các chiến đấu cơ địch. Tôi chỉ nhìn trận không chiến dữ dội được một vài phút, tai tôi bỗng nghe một âm thanh khác … những chiếc phi cơ đang chúi xuống. Tôi quay đầu và nhìn thấy một phi đội oanh tạc cơ Avenger, chia làm bốn loạt, lướt xuống phi đạo chánh. Cuộc tấn công của phi đội nầy thật đúng lúc, bốn mươi chiến đấu cơ của chúng tôi đã bị nhóm Hellcat lôi vào trận đánh nhường lại hòn đảo hoàn toàn trống trãi cho các oanh tạc cơ.
Khi tôi quay đầu chạy vô doanh trại, bom rớt nổ làm rung chuyển mặt đất dưới chân tôi. Tôi ngã chúi xuống, vùi mặt vô tro than của núi lửa. Tôi cố gắng trườn đi nhằm tránh xa những mảnh bom rít vang trong không khí. Tiếng nổ liên tục cả mấy phút. Các oanh tạc cơ lướt về phía Nam.
Tôi đứng dậy, nhìn những cột khói và bụi bốc mọc lên trên sân bay. Một cuộc oanh tạc khác. Một phi đội Avenger thứ nhì lướt xuyên qua các cột khói dày đặc, chúi thẳng xuống sân bay. Các oanh tạc cơ hầu như ở ngay trên đầu tôi. Tôi quay mình và chạy bán sống bán chết , phi thân vô phía sau một hồ chứa nước mưa vĩ đại, nằm đằng sau doanh trại. Cùng lúc đó, tôi nhìn thấy những trái bom rớt ra từ bụng oanh tạc cơ… Tôi nhìn trừng trừng như bị thôi miên… những trái bom lớn dần, phồng lên như chớp, chúi xuống mặt đất. Miệng tôi đầy bụi.
Những tiếng nổ vang dội đập vô đôi tai tôi. Tôi mở mắt, chỉ thấy đất cát và khói bốc cao khỏi mặt đất. Tôi không bị một thương tích nào, ngoại trừ mấy chổ xây xát lúc ngã chúi xuống. Thính giác tôi phục hồi dần dần. Tôi nghe tiếng răng rắc của dãy doanh trại đang sụp đổ, và vừa thét lên vừa vội vã thoát thân khi hồ chứa nước nghiêng qua một bên.
Trận không chiến vẫn còn tiếp tục. Tôi lắng nghe tiếng động cơ máy bay, tiếng đại bác, tiếng đại liên vang rền. Tôi chạy đến Bộ chỉ huy, nhưng khựng lại và vọt vô một hầm trú ẩn khi nhìn thấy đợt oanh tạc cơ thứ ba đang lướt xuống. Lần nầy đối phương nhắm hơi yếu. Bom rớt hết phía bên kia phi đạo. Tôi chạy đến Bộ chỉ huy, một căn lều vải, vẫn còn nguyên vẹn. Gặp Nakajima, tôi nói với ông rằng tôi muốn bay. “ Tất cả phi cơ khả dụng đều rời khỏi mặt đất hết rồi, Sakai”, ông đáp một cách rầu rĩ.
Tôi chỉ một chiếc Zero đang đậu ở cuối phi đạo. “Máy nó hư rồi!”. Vị chỉ huy nói. “ Nhưng bây giờ có lẽ xử dụng được. Bọn thợ máy đã sửa chữa mấy giờ trước đây.” Ông nhìn lên. “ Được, cứ đi!” Tôi vội vã chào và chạy ra khỏi lều vải. “Sakai!” Nakajima gọi, tôi quay lại. “Hãy thận trọng, Sakai. Bây giờ không phải như ở Lae … hãy thận trọng!.”
Nhưng, khi tôi cất cánh, trận chiến đã kết thúc. Những chiếc Hellcat rời khỏi nhóm chiến đấu Zero để hộ tống các phi đội oanh tạc cơ trở về. Tôi không thể làm gì hơn là quay về phi trường Iwo với những chiếc Zero còn lại.
Tổng số chiến đấu cơ Nhựt cất cánh nghinh chiến với chiến đấu cơ Hoa Kỳ đã bị bắn rơi một nữa. Hai mươi chiếc. Trong hai trận đánh, đối phương dã hạ tất cả 60 chiếc trong tổng số 80 chiếc chiến đấu cơ Zero của chúng tôi. Một con số không thể tin nỗi.
Người Mỹ chưa chán chúng tôi. Một lần nữa, tất cả chiến đấu cơ còn lại trên đảo cất cánh. Kết quả tồi tệ hơn dự tính của chúng tôi. Chỉ còn 9 chiếc Zero trở về để đáp xuống Iwo.
Lần nầy cuộc tấn công của đối phương cũng lập lại y như lần trước. Các cơ sở tan nát, phi đạo đầy dấu bom. Chỉ còn lại 8 oanh tạc cơ được hầm trú ẩn bao che. Hầu hết oanh tạc cơ và chiến đấu cơ khác đang được sửa chữa hoặc dấu trong hầm trú ẩn đều bị hủy diệt.
Sau khi đáp xuống, chúng tôi bước nặng nhọc đến Bộ chỉ huy. Không ai còn nghị lực và tinh thần để bàn tán. Chúng tôi lê thân trên mặt đất, mệt mõi và tuyệt vọng, đưa mắt nhìn binh sỹ chạy tới chạu lui trên phi đạo cố gắng lấp những lổ bom, dập tắt lửa đang còn hoành hoành trên mất ngôi nhà gần đó.
Mấy phút sau, trung tá Nakajima chậm rãi bước vô Bộ chỉ huy. Chúng tôi đứng nghiêm. Nakajima khoát tay, biểu chúng tôi ngồi xuống. Ông có vẻ khích động, giọng nói nhỏ và do dự. Ông nói với chúng tôi rằng các sỹ quan tham mưu đã thảo luận suốt đêm, và tất cả đều đồng ý với phương cách chống lại người Mỹ mà chúng tôi sẽ phải thực hiện trong tương lai. Một nhóm sỹ quan nhấn mạnh rằng nếu chúng tôi cứ tiếp tục ngăn chặn các cuộc tấn công của đối phương, một vài ngày nữa chúng tôi sẽ không còn một chiếc máy bay nào. Do đó, chỉ còn một hành động duy nhứtmà chúng tôi phải làm là dốc toàn lực đánh trả đối phương. Một trong những trinh sát cơ của chúng tôi đã phát hiện một lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ cách phía Đông Nam của hòn đảo 450 dặm, và chúng tôi có thể tấn công lực lượng nầy.
Nhóm sỹ quan tham mưu thứ nhì đồng ý kế hoạch tấn công trên nguyên tắc. “Nhưng” họ lý luận, “chỉ với 9 chiến đấu cơ và 8 oanh tạc cơ một máy, chúng ta có thể nào chống lại lực lượng đặc nhiệm của đối phương hay không? Các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ có thể tung hàng nhiều trăm phi cơ nghinh chiến cùng một lúc!” Nên biết lực lượng mà chúng tôi tấn công là lực lượng đã quát sạch tất cả các phi cơ thuộc các hàng không mẫu hạm Nhựt ở quần đảo Mariana vào ngày 20 tháng Sáu.
Cuộc thảo luận, Nakajima nói, cuối cùng đã đưa ra kết luận khi chỉ huy căn cứ Iwo, đại tá Kanzo Miura, chấp nhận kế hoạch đánh trả hạm đội Hoa Kỳ. Miura định ngày phát xuất của chúng tôi là trưa ngày 4 tháng Bảy, đúng ngày lễ kỷ niệm Độc Lập của Hoa Kỳ.
Chúng tôi không bao giờ thực hiện được kế hoạch dự trù. Các phi công Hoa Kỳ đã hung hăng trở lại Iwo vào sáng ngày 4 và xé nát các cơ sở của hòn đảo thành manh múm. Chúng tôi không sao cất cánh nổi. Các phi đạo đều tê liệt. Sau cuộc không kích chúng tôi ngồi quanh Bộ chỉ huy, trong khi các sỹ quan tham mưu thảo luận bên trong. Đại tá Miura ( sau nầy chúng tôi biết được vẫn không thay đổi kế hoạch). “ Chúng ta đang kiệt quệ dần,” ông nói với Bộ tham mưu của ông, “ sự kết thúc đã nhìn thấy rõ rệt nếu chúng ta cứ tiếp tục nằm trong thế thủ. Chúng ta sẽ làm gì? Ngồi đây để nhìn chiếc phi cơ cuối cùng bị bắn rơi trong khi hạm đội của đối phương vẫn còn nguyên vẹn? Không! Chúng ta sẽ tấn công, ngay hôm nay! Ngay khi các phi đạo được sữa chữa, tôi muốn tất cả các phi cơ rời khỏi mặt đất.”
Trung tá Nakajima đã kể lại chi tiết của buổi họp cho chúng tôi nghe. Ông kết luận: “Tôi ý thức nhiệm vụ mà chúng ta sắp thực hiện. Không có cách nào khác hơn: các bạn sẽ bay để chết. Nhưng,” tới đây ông do dự, “ quyết định đã được đưa ra. Các bạn sẽ phải đi.”
Ông nhìn đôi mắt cỉa mỗi người. “ Và có lẽ may mắn vẫn theo một bên các bạn.”
Vị trung tá rút ra một tờ giấy trong túi áo và đọc tên những phi công được chọn để thực hiện phi vụ nầy, một phi vụ không có lượt về, hình như vậy.
Không hề có một sự phấn khởi nào được nhìn thấy giữa nhóm phi công. Mỗi người nghe đọc tên đã đứng dậy và đưa tay chào. Tên tôi đứng hàng thứ chín trong sanh sách. Tôi sẽ cầm đầu nhóm phi cơ thứ nhứt, gồm 9 chiến đấu cơ Zero. Muto, phi công ưu tú của không đoàn, cầm đầu nhóm thứ hai. Nakajima chỉ định một vị đại úy cầm đầu cả phi đội.
Nakajima bước đến tôi, “hiển nhiên là không mấy vui vẽ”. Ông đặt tay lên vai tôi. “ Tôi rất buồn phải để anh đi hôm nay, người bạn thân lâu năm của tôi.”. Ông ấp úng nói. “ Nhưng, tôi không thể nào làm khác hơn, Sakai … Tôi … chúc anh gặp may mắn.” Tôi lặng thinh. Tôi đưa tay ra. Chúng tôi nắm lấy tay nhau trong lặng yên, rồi Nakajima quay lưng và bước đi.
Chúng tôi giải tán, không ai nói tiếng nào. Các phi công được chọn thực hiện nhiệm vụ bỏ lại hết các vật dụng tuỳ thân. Tôi nhìn một vài thứ mà tôi mang theo đến Iwo. Những vật dụng để lại nầy sẽ được gởi về cho gia đình. Má tôi sẽ phản ứng ra sao khi người ta trao cho bà những thứ nầy và kể cho bà nghe câu chuyện đã xảy ra?
Thì giờ trôi qua quá mau. Thật mĩa mai, tôi nghĩ, chỉ một đôi ngày trước đây, tôi giành giựt mạng sống với 15 chiếc Hellcat.
Muto bước vô căn lều của tôi và hỏi tôi có ý kiến gì về nhiệm vụ nầy không. Tôi nhìn hắn hồi lâu. “ Muto, tôi… tôi không biết. Ý kiến gì? Có ý kiến nào tôi đâu. Khi chúng ta bay đến chiến hạm địch vào trưa nay, chiến đấu cơ địch sẽ bu lấy chúng ta. Tất cả những gì mà tôi có thể nói là … chúng ta đã nhận lịnh. Chúng ta sẽ đi. Chỉ có thế thôi.”
Tôi cảm thấy buồn cho viên phi công trẻ tuổi nầy. Cá nhân tôi không còn lợi ích mấy cho xứ sở nữa. Những khó khăn mà tôi đã trãi qua trong việc né tránh bọn phi công Mỹ thiếu kinh nghiệm, cho tôi sự xác tín rằng đời sống nửa đui nửa sáng của tôi có kéo dài cũng chỉ kéo dài một ngày một bửa. Nhưng Muto … hắn là sự phối họp của Nishizawa, Ota và Sasai. Một phi công tài ba sáng chói. Hắn không thuộc lớp người của chúng tôi. Quẳng hắn vô một nhiệm vụ vô vọng như thế này quả là ngu xuẩn. Hắn có thể làm hơn nữa trong việc bảo vệ xứ sở. Và hiện thời … hoang phí biết bao.
Dĩ nhiên Muto không biết tôi đang suy nghĩ gì. Hắn cười sau lời nói của tôi. “Đúng lắm, Sakai. Tôi biết. Nếu Thượng Đế vui vẽ…” hắn nhún vai. “ Nói cách khác, xin Thượng Đế hãy để cho chúng ta ít ra là được chết chung với nhau, như những người bạn.”
Một giờ sau, tất cả các phi công được chọn lựa thực hiện nhiệm vụ tấn công xếp hàng ngay ngắn trước Bộ chỉ huy. Phía sau căn lều, là một cây cột cao có treo một lá cờ đuôi nheo màu trắng rộng lớn. Trên nền trắng của lá cờ có kẻ một hàng chữ cổ: “ Namu Ha****an Daibosatsu”. Có nghĩa là: “ Chúng tôi tin tưởng vào vị thần Chiến Trang quảng đại.”. Đây là lá cờ phỏng theo hiệu kỳ của một chiến tướng Nhựt ở thế kỷ 16, trong thời kỳ xảy ra hàng loạt nội chiến liên tục khiến cho nước Nhựt rối loạn cùng cực.
Khi còn ở Lae, chúng tôi không bao giờ chống đở tinh thần bằng những “cây nạn” tâm lý như thế nầy. Đối với tôi, sự phô trương có vẻ kinh tởm nầy là dấy hiệu của sự yếu đuối, không có ý nghĩa gì khác hơn. Nó chứng tỏ đầu óc thoái hoá của các sỹ quan chúng tôi, những kẻ cố làm nổi bật họ lên bằng ánh lửa và sự dũng mãnh của những thời xa xưa, thời mà hầu hết các cuộc chiến đều được quyết định bởi tài ba và lòng dũng cảm cá nhân.
Nhưng đó chỉ là thời xa xưa. Tôi không phải là một sỹ quan tham mưu, tôi không tham dự vào bất kì việc soạn thảo kế hoạch mặt trận nào, tôi cũng không phải là một chiến lược gia tập sự, nhưng tôi biết chắc chắn những gì mà các sỹ quan của tôi đang làm không còn phù hợp nữa. Các sỹ quan của chúng tôi đang làm công việc của một loại phù thủy mới. Họ khua chiêng đánh trống để cổ vỏ lòng yêu nước, để cố thuyết phục không chỉ riêng thuộc cấp mà còn chính họ nữa. Điều nầy giống như chúng tôi bù đắp những thiệt hại khủng khiếp bằng cách phô trương và đe doạ: “bọn Mỹ khốn nạn”.
Tại sao những người nầy lại từ chối công nhận sự thật? Làm cách nào để họ ý thức rằng loại chiến đấu cơ Zero của chúng tôi, mà từ lâu họ đinh ninh là tốt nhứt thế giới, bấy giờ lỗi thời về mọi phương diện so với loại chiến đấu cơ Hellcat, cũng như nhiều loại phi cơ mới khác của đối phương mà tôi chưa thấy qua.
Tôi nhìn lá cờ. Nó hiện diện ở đó biết bao ngày rồi, nhưng hôm nay, lần đầu tiên, tôi mới thực sự nhìn thấy nó. Có thể nào chúng tôi đặt niềm tin của mình vào một vật tượng trưng sức mạnh siêu phàm nầy? Nó giúp chúng tôi gặt hái chiến thắng? Nó sẽ chận đứng những tia đạn do mấy chiếc Hellcat bắn ra?
Là một phi công chiến đấu, tôi nhận thấy tốt hơn hết là tin vào sức mạnh và sự khéo léo của chính mình để thoát khỏi cái chết chỉ xảy ra trong đường tơ kẻ tóc. Tôi chỉ có thể tin vào các phi công bên cánh của tôi, và nhận sự hổ trợ của các đồng đội khác. Nếu tôi lâm trận bằng cách chỉ la lớn những câu cổ lổ ấy, tôi đã chết mục xương từ lâu rồi.
Nhưng tất cả đã biến đổi ở hiện tại. Sự khéo léo, tài ba đã từng cứu tôi nhiều lần trở thành vô nghĩa… Không một người nào trong số 17 phi công đang đứng nghiêm trước Bộ chỉ huy có được một mảy may hy vọng nào nhìn thấy lại bạn bè.
Tôi yêu xứ sở của tôi tha thiết, và tôi sẽ không bao giờ ngần ngại một phút giây nào khi phải đổi mạng sống để bảo vệ quê hương. Nhưng giữa việc bảo vệ quê hương đến hơi thở cuối cùng và việc hoang phí mạng sống khác nhau xa lắm.
“ Namu Ami Dabutsu!”, “ Nam Mô A Di Đà Phật”. Đó là lời thì thầm của những người hấp hối để tìm sự khuây khoả và yên ổn tâm hồn khi sắp ra đi. Tôi tin vào nước Nhựt, tôi không tin cái gọi là vị thần chiến tranh khoan dung, quảng đại. Tôi muốn chết cho xứ sở của tôi nhưng chỉ chết với niềm tin của mình, truyền thống Samurai, như là một con người, như là một chiến sĩ.
Sự suy tư đã xoa dịu nổi tức giận trong lòng tôi. Và vào lúc đại tá Miura bước ra khỏi căn lều, tôi hoàn toàn thoải mái. Vị đại tá leo lên một cái bục xếp bằng những thùng đựng bia. Chầm chậm, ông nhìn khắp lượt, có vẻ buồn bã, như nhìn mặt chúng tôi lần cuối cùng.
“ Các bạn sẽ đánh trả đối phương,” ông cất tiếng, “ Những trận đánh tự vệ chấm dứt từ đây trở về sau. Các bạn là những phi công chọn lọc của phi đoàn Yokosuka, những phi công danh tiếng nhứt của Nhật Bản. Tôi tin rằng hàng động của các bạn hôm nay sẽ gây thêm tên tuổi và truyền thống vẻ vang của không đoàn.”
Ông lưỡng lự một lúc. “ Để cho danh dự vốn sẵn có của các bạn trở nên bất diệt, các bạn phải chấp nhận nhiệm vụ mà sĩ quan chỉ huy của các bạn đã giao phó cho các bạn. Các bạn không thể, tôi lập lại, các bạn không thể hy vọng tồn tại. Trong đầu óc của các bạn chỉ có hai tiếng “tấn công”. Hôm nay, các bạn sẽ đâu mặt với một lực lượng địch được bảo vệ, dĩ nhiên hàng nhiều trăm chiến đấu cơ .
“ Do đó, tấn công cá nhân phải được quên đi. Các bạn không thể tấn công vô các mục tiêu từng người một. Các bạn phải luôn luôn kết hợp thành một nhóm duy nhứt. Các bạn phải đánh mở đường xuyên qua những phi cơ nghinh chiến của địch quân và…” Đại tá Miura đứng thật thẳng. “ Các bạn phải chúi xuống các hàng không mẫu hạm của địch quân cùng một lúc. Chúi xuống, cùng với thủy lôi, đời sống và linh hồn của các bạn.”
Tại tôi lùng bùng. Ông ta đang nói gì? Tôi có nghe đúng không? “… một cuộc tấn công thông thường sẽ là vô ích. Ngay nếu các bạn thành công trong việc thoát khỏi màn lưới chiến đấu cơ của Hoa Kỳ, các bạn cũng sẽ bị bắn rơi trên đường trở về hòn đảo nầy. Cái chết của các bạn không lợi ích gì cho xứ sở. Đời sống của các bạn sẽ bị hoang phí đi. Chúng ta không thể cho phép việc nầy xảy ra.”
Tiếng nói của ông là chúng tôi chấn động. “ Khi tiến đến mục tiêu, các phi công chiến đấu cơ sẽ né tránh đánh nhau với phi cơ địch. Không có phi công oanh tạc phóng thủy lôi của họ từ trên không xuống. Những gì xảy ra không cần biết, các bạn cứ giữ phi cơ của các bạn chung nhóm. Cánh sát cánh! Không một trở ngại nào có thể chận đứng các bạn thi hành nhiệm vụ. Các bạn phải làm sao bổ nhào xuống cùng lúc, để gặt hái sự hữu hiệu. Tôi biết những gì mà tôi nói với các bạn không phải dễ làm, nếu không nói là khó thể làm được. Nhưng tôi tin các bạn có thể làm được, và các bạn sẽ phải làm. Đó là, mọi người trong các bạn, cùng chúi xuống một hàng không mẫu hạm địch và đánh chìm nó.”
Ông ta nhìn chúng tôi một lát rồi nói mau. “ Các bạn đã nhận lịnh xong.”
Tôi đứng như trời trồng! Trước đây, chúng tôi đã từng được giao phó những nhiệm vụ ít có cơ may sống sót để trở về. Nhưng ít ra tôi có cơ hội tranh đấu cho sự sống còn của mình! Rõ ràng, đây là lần đầu tiên, một phi công Nhựt nhận được lịnh tạo ra một cuộc tấn công tự sát.
Trong hải quân của chúng tôi đã có một qui luật bất thành văn. Theo đó, viên phi công có thể bổ nhào xuống một chiến hạm địch một khi chiếc phi cơ của hắn què quặt trên biển cả bao la, không thể nào trở về căn cứ được. Không chỉ có phi công Nhựt, nhưng phi công Hoa Kỳ, Anh, Đức … cũng làm như vậy … và sẽ luôn luôn làm như vậy bao lâu mà con người còn bay và còn chiến đấu. Nhưng chưa từng có một vị Chỉ Huy Trưởng không quân Nhựt nào nói với các phi công của ông ta: “ Hãy ra đi và chết!”.
( Bốn tháng sau đó, Phi Đội Tấn Công Đặc Biệt Thần Phong lừng danh được tổ chức bởi Phó Đô Đốc Onishi ở Philippine. Trước khi tung ra các phi cơ tự sát, Onishi đã hội ý với các phi công dưới quyền để nhận một sự đảm bảo hoàn toàn rằng họ sẽ hy sinh mạng sống để bảo vệ xứ sở. Các cuộc tấn công Kamikaze trước khi được tung ra phải trải qua nhiều sự sắp xếp phức tạp, nhứt là những phi cơ thi hành nhiệm vụ nầy đều còn trong tình trạng khả dụng và chất đầy bom cũng như được các chiến đấu cơ hộ tống đến mục tiêu. Các phi công chiến đấu cơ hộ tống nhận chỉ thịd đặc biệt quay về căn cứ để báo cáo những kết quả cuộc tấn công do chính mắt họ nhìn thấy. Ở Iwo, việc nầy hoàn toàn khác hẳn. Ngay cả những chiếc Zero không mang bom khi thi hành nhiệm vụ hầu như đã đến kỳ phế thải. Đại tá Miura, người ban tử lịnh cho chúng tôi, đã chết vì nhiệm vụ, trong khi Phó Đô Đốc Onishi cam tâm mổ bụng sau cuộc đầu hàng của Nhật Bản)
Những lời nói của Miura đã gây sự xúc động dữ dội cho các phi công đứng tập họp. Trường hợp những người hy sinh đời sống của họ với sự cân nhắc, thì lời nói, dáng vẻ, sự dũng cảm phi thường cũng như kinh nghiệm chiến đấu của đại tá Miura sẽ gây phấn khởi tinh thần cho họ. Nhưng hiện tại lại khác hẳn. Hiện tại, họ biết rằng họ sẽ ra đi không bao giờ trở lại, những người ên không trung lần cuối. Tư tưởng tôi hổn độn. Tôi không phẩn nộ mà cũng không tuyệt vọng. Tim tôi, trí óc tôi có thể nói là đã đông lạnh. Tôi nhớ lại câu: “ Một Samurai đã sống một đời sống như vậy, hắn phải luôn luôn chuẩn bị để chết.”
Tuy nhiên, giáo điều Samurai không bao giờ đòi hỏi một người chuẩn bị liên tục để tự hủy. Có sự khác biệt rất xa giữa sự tự hủy và việc bước vào cuộc chiến đấu với một ý chí chấp nhận tất cả mọi thách thức và gian nan. Trường hợp sau nầy, cái chết được chấp nhận và, có thể, không hối tiếc. Con người sống với chiếc đầu ngẩng cao, hắn có thể chết với dáng vẻ ấy. Hắn không chôn vùi danh dự của chính mình cũng như xứ sở, và hắn mãn nguyện khi trao cho xứ sở tất cả những gì tốt đẹp nhứt mà hắn có. Bất chấp dầu sôi lửa bỏng, bất chấp kẻ thù vượt trội, hắn vẫn chiến đấu khi cần thiết, hắn tấn công khi bị áp lực. Tất cả những điều nầy đã hình thành đời sống của một chiến sĩ.
Nhưng làm sao một người có thể giữ được trầm tĩnh và khách quan để ra đi tự hủy trong vòng một đôi giờ?
Tuy nhiên, lịnh vừa ban ra nhắc nhở chúng tôi biết rằng chúng tôi vẫn còn ở trong hải quân, nơi mà lịnh vẫn là lịnh.
Một sự yên lặng trùm lấp khi đại tá Miura dứt lời. Chúng tôi đưa tay chào. Ông ta quay lưng, và các phi công tụ tập thành nhiều nhóm nhỏ.
Tôi nói với hai phi công bên cánh của tôi: “ Các bạn đã thấu hiểu lịnh của đại tá?” Họ gật đầu. “Tôi tin các bạn đã sẵn sàng chuẩn bị cho những gì mà chúng ta phải làm. Đây là những chỉ thị của tôi: phải sát cánh với phi cơ của tôi cho đến khi chúng ta đến mục tiêu. Không bao giờ được phá vỡ đội hình. Những gì xảy ra không cần biết, cứ đeo dính phi cơ của tôi.”
Muto và hai phi công bên cánh đến nhập bọn với chúng tôi. Muto nhe răng cười và nói đùa: “Nầy, còn một vài giờ nữa chúng ta đi chết, chúng ta phải nhìn mặt nha cái đã. Tôi muốn nhớ mấy khuôn mặt quen thuộc một cách chắc ăn.” Hắn đã phá vỡ sự căng thẳng, chúng tôi cười và ngồi bẹp trên mặt đất. Muto không ngớt cười đùa. Tuy nhiên, một vài phút sau, tiếng cười trở nên gượng gạo và những lời nói đùa trở nên gượng gạo.
Nhiều phi công không có tên trong danh sách thi hành nhiệm vụ đến gặp chúng tôi. Họ mang cho chúng tôi thuốc hút, kẹo và nước ngọt. Dĩ nhiên, họ muốn làm cho chúng tôi vui vẽ, họ nói rằng họ rất tiếc đã không được chọn để ra đi với chúng tôi. Nhưng đôi mắt mở rộng và buồn bã ấy đã nói thêm những lời mà họ không thể nói được. Muto thôi đùa giỡn. Hắn ngồi lặng lẽ, suy tư. Nỗi căng thẳng vừa vở lại hiện ra. Đã đến giờ cất cánh lần cuối cùng.
Ba phi công khác bước ra khỏi căn lều, và tất cả chúng tôi đi ra các chiến đấu cơ. Đứng bên cạnh phi cơ, tôi nhìn túi dù của mình. Thế rồi, khi một người quăng túi dù của hắn xuống đất, chín phi công khác đều làm theo.
Phi cơ của tôi máy móc không được tốt vì đã bay chiến đấu ròng rã hay ngày, và năng lực thiết yếu đòi hỏi của các trận không chiến làm cho động cơ của nó gần cháy. Thông thường tôi không bao giờ gượng gạo cất cánh với một chiếc phi cơ trong tình trạng nầy. Nhưng hiện thời ? Tôi lấ làm khó nghĩ. Tôi nhìn các chiến đấu cơ khác. Cơ khí viên đang sửa chữa ít nhứt 4 trong số 8 chiếc phi cơ sắp sửa thực hiện nhiệm vụ. Không phải một mình tôi gặp khó khăn.
Nhưng ai lại đi đòi hỏi một chiếc phi cơ hoàn hảo trong nhiệm vụ nầy? hãy nhớ, Sakai, đây là phi xuất một chiều. Anh chỉ cần nó lết được 450 dặm, không phải 900 dặm. Anh không trở về từ nhiệm vụ nầy đâu. Tám oanh tạc cơ chạy ra phi đạo. Chiếc Zero đầu tiên nằm trong vị thế cất cánh. Tôi chạy chầm chậm theo sau, tiếp đó là hai phi công bên cánh của tôi.
Dọc theo hai bên phi đạo, các cơ khí viên và phi công khác đứng nghiêm chỉnh đầu trần, vẩy khăn khi chúng tôi lướt trên phi đạo và cất cánh. Chúng tôi bay dọc theo đội hình chữ V, và xoay hướng trực chỉ về phía hạm đội của địch quân.
Tôi quay đầu, Iwo là một chấm nhỏ ở chân trời, càng lúc càng nhỏ hơn, cho đến khi nó chỉ còn là một mũi kim trên mặt đại dương bao la.
Tôi nhìn lại một lần nữa, khó thể thấy Iwo ở đâu. Chân trời lờ mờ và gợn sóng trước mắt tôi. Tôi cảm thấy váng vất.
Khuôn mặt của má tôi thấp thoáng khắp nơi trên bầu trời. Một ảo ảnh, nhưng rõ rệt quá đổi. Bà mỉm cười với tôi. Bà không biết rằng tôi sắp chết bằng cách tự giết mình. Tôi nhìn mặt má tôi trừng trừng. Ảo ảnh tan dần và biến mất.
Một nỗi cô đơn vây phủ lấy tôi. Tôi như tan biến hẳn trong biển cả vô tận. Khắp nơi chỉ là trời nước mênh mông.
Tôi nhìn những chiến đấu cơ bay phía trước tôi, các oanh tạc cơ bay phía trước nữa và thấp hơn một chút. Chúng hình như không chuyển động, đứng một chỗ giữa không gian, lung lay nhè nhẹ, lên xuống rập rình trên một tấm đệm không khí căng phồng. Mọi thứ có thật không?
Tôi lắc đầu để xua đuổi sự mù mịt trước mắt. Nhạc! Hãy lắng nghe! Tiếng dương cầm. “Khúc nhạc dưới trăng”… Hatsuyo một lần đã đàn cho tôi nghe.
Hatsuyo! Khuôn mặt nàng hiện ra… một ảo ảnh? Tiếng nhạc lúc đầu phảng phất, rồi dần dần lớn hơn, phá vỡ hai lỗ tai tôi.
Tôi chưa bao giờ nói với nàng. “Hatsuyo, anh yêu em”. Tôi hét lớn. Không ai hết. Chỉ một mình tôi. Tôi nghĩ về nàng… tôi xoay lại nhìn Iwo Jima. Tôi chỉ thấy biển cả vô tận.
Tiếng nhạc biến mất. Bầu trời trong sáng trở lại. Động cơ máy bay đập mạnh vào tai tôi. Mấy chiếc Zero giữ vững đội hình hoàn hảo, chuẩn xác, cùng nhau lướt về phía định mạng của máu và lửa. Niềm cô đơn cũng tan hẳn. Anh quá bi ai, Sakai. Anh là một phi công. Một Samurai. Nhiệm vụ … hãy làm những gì mà anh phải làm!
Tôi cố gắng sắp xếp kế hoạch cho những phút giây cuối cùng trong không gian, phương pháp nào để chúi xuống một hàng không mẫu hạm hữu hiệu nhứt. Chổ nào yếu nhứt trên chiếc tàu? Ống khói! Chui xuống ống khói. Ba chiến đấu cơ hè nhau đâm vô vỏ mỏng ở ngay mực nước? Hy vọng trên sàn tàu có nhiều dãy phi cơ, bình của chúng chứa đầy xăng, bên trong chứa đầy bom. Chúi xuống những chiếc phi cơ, bom sẽ nổ, xăng sẽ cháy, biến chiếc tàu thành một địa ngục với hàng ngàn người đẫm trong máu, vang dậy tiếng la hét và ngập tràn sự kinh khiếp.
Đại dương trôi lướt phía dưới tôi. Chớp mắt, nhiều phút trôi qua và tôi nhìn thấy, xa về bên phải, một cột khói lã theo chiều gió, trôi chầm chậm trên mặt nước. Đó là hòn đảo Pagan, nổi trên mặt biển khoảng 90 thước, với một nhóm núi lửa ngầm, toả hơi nghi ngút qua sức nóng lan rộng và luồn sâu dưới nước. Nó nhắc tôi, nhớ lại những hình ảnh trong kinh Phật mà tôi từng coi qua lúc còn nhỏ. Mỉa mau thay, mảnh đất cuối cùng mà tôi được nhìn thấy là một mảnh đất lờ mờ, sôi sụt, bốc lửa và gớm ghê.
Bốn mươi phút sau, nhiều đám mây đen xuất hiện ở chân trời, phía trước chúng tôi, cách mặt nước hàng ngàn bộ. Những đám mây ấy đang trút cuồng phong và mưa lủ xuống mặt biển phía dưới. Tôi nhìn bản đồ. Lực lượng đặc nhiệm của địch quân, do trinh sát cơ chỉ điểm, nằm ở một nơi nào đó dưới cơn mưa bão dữ dội nầy.
Chúng tôi đã ở trong vòng bán kính tuần thám của phi cơ địch, và ra đa trên các chiến hạm chắc chắn đã phát hiện chúng tôi.
Tám oanh tạc cơ chúi mũi xuống, chiến đấu cơ chúng tôi theo sát phía sau. Ở 16.000 bộ, chúng tôi rớt vô một đám mây dày đặc, trở thành kẻ đui mù trong nhiều giây, rồi lướt xuyên qua và tiếp tục chúi xuống.
Ở cao độ 13.000 bộ, một vật gì nhá sáng trên bầu trời, xa về phía trước, và trên chúng tôi nhiều ngàn bộ. Hiện tượng nầy lập đi lập lại nhiều lần. Đó có thể là do cánh của một chiếc phi cơ phản chiếu ánh sáng mặt trời.
Tôi nhìn thấy chiến đấu cơ đầu tiên. Một chiếc Hellcat, với thân và đôi cánh rộng không thể lầm lẫn được, lướt xuống, xuyên qua những đám mây. Một chiếc khác, và nhiều chiếc nữa. Bao nhiêu chiếc? Để coi! Vẫn lướt xuống xuyên qua những đám mây, chiếc nầy đến chiếc khác, một dọc dài các chiến đấu cơ hình như vô tận. Tôi bắn một loạt để báo cho các phi công khác. Phi đôi trưởng và Muto lắc cánh đáp nhận. Ra đa cỉa Hoa Kỳ đã chỉ điểm vị trí của chúng tôi một cách chính xác. Nhóm chiến đấu cơ địch chúi khỏi các đám mây cách phía trước chúng tôi không đầy một dặm, và cách phía trên chúng tôi chỉ nữa dặm.
Tôi bắt đầu đếm, và chỉ đếm con số mười bảy. Đối phương đã nhìn thấy chúng tôi! chiếc phi cơ thứ mười bảy, tức chiếc mà tôi có thể đếm, bất ngờ lăn tròn về phía trái và chúi xuống. Lập tức, những chiếc còn lại vung ra hai bên và lướt xuống chúng tôi.
Lời nói của Miura văng vẳng bên tai tôi: “ Không chấp nhận chiến đấu… giữ vững các phi cơ bạn chung nhóm.”
Lời nói thật minh bạch. Nhưng làm sao đây? Hãy nhìn những chiến đấu cơ đang lướt đến. Bóng dáng của những chiếc Hellcat thấp thoáng khắp mọi nơi, nhiều chiếc đã lấy thăng bằng sau khi chúi xuống để từ phía dưới đánh ngược lên phi cơ của chúng tôi. Một nhóm hai mươi chiếc Hellcat thứ nhìn hung hăng vồ ba chiếc Zero của Muto. Còn nhóm khác nữa, hơn ba mươi chiếc, bổ nhào xuống rồi lấy thăng bằng và vượt lên nhanh chóng, tấn công các oanh tạc cơ đang bay phía dưới.
Tôi nín thở khi nhóm Hellcat chỉa mũi vô các oanh tạc cơ. Hai tiếng nổ làm mở cả không gian phát ra, chiếc oanh tạc cơ thứ nhứt và thứ nhì biến mất. Thủy lôi mang dưới bụng đã xé nát hai chiếc phi cơ làm muôn ngàn mảnh nhỏ li ti.
Bấy giờ những chiếc Hellcat đang nằm trong tầm hoả lực của ba chiếc Zero do Muto cầm đầu, nhưng cả ba đã tránh né bằng cách lộn nhào theo hình thắt nút dây. Tôi đấm tay vô cửa kiếng một cách bất lực. Muto đã có trong tay một tử điểm. Hắn có thể lăn về bên phải và đẩy hai chiến đấu cơ địch rời khỏi không trung mà không cần một cố gắng nào, nhưng hắn không làm.
Một nhóm Hellcat khác lướt đến ba chiếc Zero của tôi. Tôi kéo cần điều khiển lại phía sau, vọt tới và xoay trôn ốc thật ngặt với hai phi công bên cánh đeo dính sau đuôi tôi. Chúng tôi lấy thăng bằng để nhìn thấy nhiều chiếc Hellcat khác xông tới với các họng súng ở hai bên cánh rực lửa.
Tôi lăn tròn. Thật nhanh. Thêm nhiều chiến đấu cơ xông tới nữa. Lăn tròn nữa. Hai lần. Lăn tròn qua trái. Lấy thăng bằng. Nhiều đối thủ lại xông tới, có tất cả bao nhiêu?
“ … Không chấp nhận chiến đấu…”
Bạn có thể y lịnh mãi được không? Tôi không thể. Không, ngay bây giờ. Với bầu trời dầy đặc chiến đấu cơ địch, tôi tránh né như vậy đã đủ lắm rồi.
Tôi xoay như chớp, chỉa mũi vô một chiếc Hellcat đang chúi xuống. Những viên đạn của tôi đẩy bật nó ra lập tức. Chiếc phi cơ lảo đảo dữ dội rồi chúi xuống biển, kéo theo một vệt khói càng lúc càng mau.
Không có thời giờ để nhìn theo nạn nhân, tôi nhấn bàn đạp bẻ lái, kéo cần điều khiển thật mạnh. Đúng lúc. Một chiếc Hellcat lướt vụt qua chiếc Zero của tôi, tiếp theo là những chiếc khác và nhiều chiếc khác nữa.
Tôi không có thời giờ để nhả bình xăng phụ dưới bụng. Thế rồi chiếc phi cơ địch cuối cùng lướt qua, chúi thẳng xuống biển, và bắt đầu lấy thăng bằng để quày lại. Tôi nhả bình xăng phụ và đảo ngược. Các phi cơ bên cánh vẫn còn với tôi. Nhờ trời, họ ngoan ngoản thi hành đúng các chỉ thị của tôi, bám sát một bên tôi, đua tài xoay trở với tôi.
Mình mẩy tôi ướt đẩm. Tôi định đưa tay lau mặt. Không kịp. Cả 16 chiến đấu cơ địch lại lướt lên cùng một lúc nhảy xổ vô ba chiến đấu cơ của tôi.
Một lần nữa, tôi lại chúi, lộn, đảo và lăn. Cần điều khiển lên, xuống, giữa, phải, trái. Đá bàn đạp lái. Loé sáng, những lằn đạn. Trật, và trật nữa. Bọn phi công Mỹ nhắm yếu.
Tôi liếc nhìn nhóm oanh tạc cơ. Đó là một lò sát sinh? Uể oải, chậm chạp, với những trái thủy lôi trong bụng, trôi lờ đờ trong không khí, không được chiến đấu cơ bảo vệ vì mắc bận đánh trối chết với lũ Hellcat. Một trái cầu lửa biến mất trong một tia chớp hừng hực. Một oanh tạc cơ nữa nổ tung… Không đầy một phút, cả bảy oanh tạc cơ đều đi đời. Ngay cả một cái thân hoặc một cái cánh nguyên vẹn cũng không nhìn thấy.
Tình trạng của mấy chiếc Zero cũng không lấy gì làm tốt hơn. Tôi nhìn thấy hai chiếc bao trùm trong lửa đỏ, lăn lộn liên hồi. Không viên phi công nào cố nhảy ra khỏi phi cơ. Họ ở lại và chết cháy.
Tôi không nhìn thấy một chiếc Hellcat nào gặp rắc rối, ngoại trừ chiếc bị tôi bắn rơi. Chúng tôi hầu như không thể nào né tránh chiến đấu, bởi đối phương quá nhiều và cứ bu theo chúng tôi. Chiến đấu cơ Hellcat nhanh nhẹn hơn chiến đấu cơ của chúng tôi, tốc lực cũng mau hơn nhiều. Chỉ nhờ sự thiếu kinh nghiệm của bọn phi công địch đã cứu chúng tôi. Nếu họ có kinh nghiệm hơn chút nữa, mỗi chiếc Zero sẽ bị hạ không đầy một phút. Hiện thời chỉ nhóm của tôi còn hiện diện trên bầu trời. Những chiếc Hellcat đã quét sạch các phi cơ Nhựt khác, bấy giờ bau đến kết hợp với 16 chiến đấu cơ đang tấn công nhóm của tôi.
Những chiếc cánh màu xanh và ngôi sao màu trắng chiếu lấp lánh với các họng súng đều rực lửa, ở trên và ở dưới, bên phải và bên trái chúng tôi. Đâu đâu cũng có bóng dáng Hellcat.
Những chiếc Hellcat nầy nhắc nhở tôi nhớ hồi ở Lae, lúc 12 chiến đấu cơ của chúng tôi cố hạ một oanh tạc cơ đơn độc. Chúng tôi đã xé nát đội hình để tấn công đối thủ một cách nôn nóng. Hiện thời mấy chiếc Hellcat cũng làm giống như vậy. Chúng tôi trở nên hổn loạn, cố tránh né hoả lực và đụng chạm với đồng bọn hơn là với chúng tôi. Chúng tôi bay chính giữa một nhóm Hellcat đông đảo khủng khiếp, và mặc dù đối phương lâm vào tình cảnh hổn loạn, chúng tôi cũng không thể nào tìm thấy lối thoát. Chúng tôi đã ở cách Iwo Jima 400 dặm, và vẫn còn cách các hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ đâu khoảng 50 dặm. Lực lượng nầy chúng tôi vẫn chưa nhìn thấy và không thể nào đảo mắt tìm kiếm. Cho dù chúng tôi có nhìn thấy đi nữa, làm sao chúng tôi lướt qua khỏi 60 chiếc Hellcat, chiếc nào cũng bay mau hơn chúng tôi?
Một cơ may nhỏ đã đến với chúng tôi. Cuộc không chiến di động về phía một đám mây dày đặc treo lơ lững trên mặt biển.
Một chiếc Hellcat bỗng tách khỏi vòng vây, bỏ lại một khoảng trống. Tôi lăn tròn và đẩy cần điều khiển về phía trước, chúi hết tốc lực vô đám mây. Tôi liếc lại phía sau. Hai phi cơ bên cánh vẫn đeo dính tôi. Trong nhiều phút, tôi không nhìn thấy gì hết. Thế rồi phi cơ chúng tôi lướt ra khỏi đám mây. Tôi nhìn hai chiếc Zero, xa phía dưới phi cơ của tôi, đang xoay tít dữ dội, nhưng trong một vài giây, chúng tôi lấy lại thăng bằng, và vượt lên.
Bầu trời không còn bóng dáng một chiếc Hellcat nào. Chúng tôi bay trong đội hình chữ V và xoay trở về hướng Nam. Chúng tôi thở phào thoát nạn, nhưng tương lai đen tối đang chờ đợi.
Những đám mây dầy đặc hơn khi chúng tôi tiến gần đến hạm đội địch. Mây trở nên dầy đặc hơn nữa, bay là là cách mặt biển không đầy 700 bộ.
Một cơn mưa mù mịt đổ xuống, mạnh đến nổi nhiều lần ba chiếc Zero lâm hiểm. Mưa quật vô cánh phi cơ như một giòng thác. Chúng tôi vẫn phải lướt tới. Mây càng lúc càng sà thấp xuống mặt biển. Chúng tôi chúi xuống dần chỉ còn cách mặt nước 60 bộ, quét cánh trên đầu những cơn sóng dâng cao.
Bão nổi lên dữ dội hơn. Tiếng gió át cả tiếng động cơ máy bay. Mưa quật mạnh khủng khiếp trên cánh và trên thân.
Chúng tôi không thể bay thấp hơn. Hiện thời chúng tôi trở nên mù hẳn. Tôi chỉ nhìn thấy mà mưa bao quanh. Không nhìn thấy mặt nước, nhưng chúng tôi biết rằng chỉ cần bước thêm bước nữa, tất cả chúng tôi sẽ biến mất trong biển cả. Ba mươi phút trôi qua. Bão vẫn không giảm. Theo bản đồ, tôi phỏng định phi cơ đang hướng thẳng đến lực lượng đặc nhiệm của đối phương. Ngay cả một hạm đội đồ sộ như vậy mà chúng tôi cũng không thể nào tìm thấy.
Bầu trời càng lúc càng u tối. Đã bảy giờ chiều có hơn. Tôi lo lắng. Cho dù chúng tôi lướt khỏi giông bão, trời đang tối nhanh chóng sẽ khiến chúng tôi không thể nhìn thấy hạm đội địch…
Tôi liếc nhìn hai chiến đấu cơ bám sát một bên đuôi. Hai phi công trẻ nầy sẽ ra sao? Họ ngoan ngoãn theo tôi, sẵn sàng chấp nhận bất cứ những gì mà tôi đã chọn. Nếu tôi chúi xuống biển, họ cũng sẽ chúi theo tôi.
Làm gì đây? Tôi soát lại la bàn và đảo một vòng thật rộng. Hai chiến đấu cơ vẫn theo sát phía sau tôi. Tôi không định chắc được vị trí của mình, bởi lẽ chúng tôi đã quần thảo với địch quân, chúi vô mây, và sau đó bay thẳng xuyên qua mưa bão. Tôi có thể ở bất cứ một nơi nào đó trên mặt biển … ngay cả một vòng 180o vừa rồi có thể đưa chúng tôi về hướng Nam thay vì về Iwo Jima như dự định. Nhưng tôi phải trở về, tôi phải cố gắng!
Lời nói cương quyết của đại tá Miura lại vang đến bên tai tôi “… cả nhóm phải chúi xuống các hàng không mẫu hạm địch!”
Tôi hầu như muốn quày phi cơ trở lại để tìm kiếm chiến hạm địch. Tôi vẫn là một sỹ quan hải quân Hoàng Gia, nơi mà mạng lịnh vẫn là cái gì tuyệt đối. Chưa từng nghe nói đến có người đặt câu hỏi, đúng hoặc sai, trước những mạng lịnh được ban ra. Cho dù tôi trở về Iwo Jima được, làm sao tôi có thể đối diện với vị chỉ huy trưởng vừa giao nhiệm vụ cho tôi?
Tất cả là một sự dằng co cùng cực trong tôi. Cho đến nhiều năm sau nầy tôi mới hiểu hành động của mình là một hành động có ý thức. Nhưng ngay lúc đó, qua nhiều năm chịu đựng thứ kỷ luật cứng rắn và tàn nhẫn, sự dằng co của tôi không thể nào tả xiết. Qua những giây phút khủng khiếp trong phòng lái của chiếc Zero nầy, tôi đã chiến đấu và đã thành công trong việc phá vỡ hệ thống chỉ huy và truyền thống của hải quân.
Cho dù cả ba chúng tôi tìm thấy chiến hạm, cho dù chúng tôi vượt khỏi chiến đấu cơ Hoa Kỳ, cho dù chúng tôi chúi xuống chính xác, chúng tôi sẽ đạt được kết quả gì với ba chiếc phi cơ nhỏ nhoi, không mang bom, chỉ có một số đạn đại bác và đại liên? Hai phi công trẻ tuổi bay theo tôi đã giao phó tính mạng của họ trong tay tôi, họ đã chứng tỏ tài ba tránh né phi thường của họ trong cuộc đụng độ vừa qua. Họ đã không lùi bước khi bay xuyên qua một cơn mưa bão. Mạng sống của họ phải dành một nơi tốt hơn là đâm đầu xuống biển. Họ thuộc về xứ sở, họ phải có dịp may để bay và chiến đấu cơ trở lại. Do đó mà quyết định của tôi đã được tạo ra.
Tôi quay về Iwo Jima. Đại dương đã biến mất trong màn đêm. Tôi tuyệt đối không nhìn thấy một vật gì phía dưới. Tôi chỉ nhìn thấy những vì sao chiếu lấp lánh trên bầy trời. Gần một giờ trôi qua, chúng tôi vẫn lướt tới. Giây phút của định mạng. Nếu tôi bay đúng hướng, bấy giờ Iwo Jima sẽ ở phía dưới tôi. Nếu không … tôi chưa bao giờ cảm thấy nỗi lạnh lẽo nào như nỗi lạnh lẽo của đại dương ôm choàng lấy khi chiếc Zero đâm đầu xuống.
Nhiều phút nữa trôi qua. Tôi hướng mắt về phía chân trời, hy vọng nhìn thấy một vật gì, một chấm màn đêm nổi bật lên bầu trời đầy sao. Vật gì đó đã thấy kia rồi. Nó đen và to lớn khác thường. Iwo Jima! Chúng tôi đã trở về!
Tôi chúi mũi xuống, Shiga và Shirai tiếp theo sau. Iwo bao trùm trong bóng tối khi chúng tôi đảo phía trên. Thế rồi bốn ánh sáng leo lét xuất hiện. Nhưng đó là những ngọn lửa huyền diệu, kì bí đối với tôi. Những ngọn đèn hiệu dọc theo hai phi đạo chánh. Chúng chớp tắt, báo hiệu cho phi cơ đáp xuống. Những người trên đảo đã nhận ra tiếng động cơ của chúng tôi. Một cảm giác nhẹ nhóm tràn ngập trong tôi. Tôi hầu như mềm lã, sự căng thẳng trong suốt ba giờ bay trở về đã bất thần chùng lại.
Bốn ngọn đèn không soi rõ phi đạo. Thường thường chúng tôi xử dụng 20 ngọn, nhưng 16 ngọn đã bị bom phá hủy. Bốn ngọn hay bốn mươi ngọn đèn, đối với tôi cũng vậy thôi. Sau những gì mà chúng tôi đã bỏ lại sau lưng, tôi cảm thấy có thể đáp xuống trong bóng tối. Thế rồi tôi đáp xuống, lướt trên sân bay với hai chiến đấu cơ liên tiếp theo sau. Đèn tắt.
Một đám đông phi công và cơ khí viên chạy ra phi cơ của chúng tôi. Khi họ tới, tôi nhìn họ một thoáng. Tôi cảm thấy không được tự nhiên khi đối diện với họ. Tôi nhảy xuống đất và bước đến Bộ Chỉ Huy. Đám đông không ai cố giữ tôi lại. Mọi người đều biết cảm nghĩ của tôi, họ tránh sang một bên khi tôi bước ngang qua phi trường với hai phi công bên cánh theo sau.
Trong bóng tối, tôi đụng phải một người. Tôi thụt lùi. “ Ai đó?” Tôi hỏi lớn. Không có tiếng trả lời. Tôi bước lại người tôi vừa đụng, hắn ngồi bệt trên mặt đất. Tôi có thể nhận ra bộ đồng phục phi công. Tôi cúi xuống nhìn mặt hắn.
“ Muto!”
Viên phi công ngồi cú rủ, đầu gục trên đôi tay.
“ Muto, anh bị thương hả?”
Muto ngước nhìn tôi. “ Không,” hắn thẩn thờ đáp. “ Tôi không bị thương.”
Hắn đứng dậy và nhìn Shiga và Shirai một cách lạ lùng. “ Anh … anh cũng mang về cả hai phi công bên cánh của anh!” Hắn thở hổn hển.
Hắn nhìn xuống đất, bật khóc. “ Sakai … bạn hãy chửi rủa vào mặt tôi đi. Hảy phỉ nhổ tôi đi!”
Nước mắt hắn đầm đìa trên mặt hắn. “ Tôi bắt buộc phải quay về,” hắn hét lên trong sự đau lòng. “Một mình !”.
Tôi nắm vai hắn. “ Tôi biết cảm nghĩ của anh, Muto. Nhưng bây giờ không thể làm gì hơn nữa. Quá muộn. Tất cả đã trôi qua. Đó là quá khứ.”
Tôi lay vai hắn nhè nhẹ, và chỉ Bộ chỉ huy: “ Muto, chúng ta cùng vô trong đó.”
Hắn gật đầu. Chúng tôi không nhìn nhau. Và rồi có một gì chận lấy tim tôi. Cơn thịnh nộ trước những gì xảy ra trong cái ngày khủng khiếp nầy đã nguội lạnh trong tôi bỗng nhiên nổi dậy. Tôi nghĩ những giọt nước mắt của viên phi công trẻ tuổi đầy hứa hẹn nầy là những giọt nước mắt lo sợ. Lo sợ sẽ là một tên hèn nhát trước một nhiệm vụ ngu xuẩn.
Tôi thề rằng, bất kể vấn đề gì xảy ra, nếu một tên sỹ quan nào trút giận lên mình viên phi công trẻ nầy, tôi sẽ hạ gục hắn. Tôi sẽ nhồi hắn thành bột.
Đại tá Miura ngồi trơ sau bàn làm việc. Ông lắng nghe chăm chú khi tôi trình bày những gì xảy ra.
Ông nhìn tôi chăm chú rồi bình thãn nói: “ Cảm ơn anh, Sakai!”. Chỉ mấy tiếng vậy thôi.
Tới phiên Muto trình bày. Dĩ nhiên, những gì hắn trình bày đều xác nhận những lời tôi vừa nói, cũng chỉ có bốn tiếng. “ Cảm ơn anh, Muto!”
Chúng tôi chào cáo từ. Đại tá Miura vẫn ngồi bất động, gương mặt u tối, đôi mắt bi thiết.
Tôi cảm thấy buồn cho ông ta, người đã ra lịnh cho thuộc cấp thi hành một nhiệm vụ thất bại trước khi bắt đầu. Nhưng phải ra lịnh, bởi vì ông ta không còn cách nào khác để chọn, bởi vì đó là cách tốt nhất cho xứ sở của ông.
Khi chúng tôi bước ra khỏi bộ chỉ huy, một người chạy theo chúng tôi. Đó là trung tá Nakajima. Ông đưa hay tay nắm lấy vai tôi, khuôn mặt rạng rỡ. “ Sakai!” ông kêu lên. “ Tôi hết mong anh trở về!”
Tôi muốn nói, nhưng Nakajima chận lời:
“ Anh không cần biện hộ. Tôi đã biết anh quá nhiều, ông bạn của tôi? Ai ở trên hòn đảo nầy cũng biết những gì đã xảy ra hôm nay, do đó, việc duy nhứt của anh là trở về. Đừng nhăn nhó nữa! chúng ta sẽ còn nhiều cơ hội, chúng ta vẫn còn có thể đánh nữa mà! Anh về được đây là hay lắm rồi !”.
Những lời của Nakajima làm tan băng giá trong tim tôi. Tôi không còn cô độc. Nhưng những lời tử tế của ông cũng không thể nào đẩy lui hoàn toàn cơn phẩn nộ trong lòng tôi.
Các phi công khác chạy đến với chúng tôi, tay mang lề mề thuốc hút, kẹo bánh và những thức ăn khác. Chúng tôi chỉ nói cám ơn và từ chối. Tôi không sao nuốt nổi một miếng nào vô họng. Một giờ sau, một liên lạc viên chạy vô phòng tôi: “ Một công điện vừa nhận được từ phía Nam Iwo,” hắn la lớn. “ Một trong những oanh tạc cơ vừa đáp xuống đó. Phi hành đoàn an toàn !”
Viên phi công tuông hết thủy lôi và quày phi cơ chạy về. Hắn biết rằng dẫu hắn có cố gắng một ngàn năm đi nữa hẵn cũng không thể nào chui lọt bức tường lửa do những chiếc Hellcat tạo ra.
Tin tức hầu như xoá hết sự căng thẳng. Nó cho thấy rằng không phải chỉ có tôi và Muto đã chặt đứt “ sợi dây xích rắn chắc” của truyền thống và mạng lịnh.
CHƯƠNG XXI


Lực lượng đặc nhiệm của Hoa Kỳ không cho chúng tôi nghiền ngẫm vận xấu của mình. Từ nhiệm vụ không may trở về vào ngày hôm trước, ngay hôm sau chúng tôi được 16 chiến hạm địch tiến sát vô hòn đảo nổi đại pháo chào mừng.
Tách khỏi thành phần chánh của hạm đội, tám tuần dương hạm và tám khu trục hạm nhàn nhã hướng đến hòn đảo. Sau một vài quả đạn thăm dò, mười sáu chiến hạm di chuyển vào tầm trực xạ.
Suốt hai ngày, chúng tôi sống chui rút như chuột, cố vù mình xuống bụi cát của núi lửa Iwo Jima càng sâu càng tốt. Suốt 48 tiếng đồng hồ, mười sáu chiến hạm chậm rãi chạy lui chạy tới, hai bên hong tím thẩm ánh lửa loà sáng, tuông ra những khối sắt thép gào, làm rung chuyển từ đầu đến cuối hòn đảo.
Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình bất lực và nhỏ nhoi như tôi đã cảm thấy trong hai ngày nầy. Chúng tôi bó tay, không biết cách nào để chống trả.
Mọi thứ trên hòn đảo đều bị xé nát thành manh múm. Không một ngôi nhà nào còn đứng vững. Không một căn lều nào thoát khỏi. Cả bốn chiến đấu cơ trở vừa về từ phi xuất cuối cùng cũng bị đạn đại bác nghiền nát.
Nhiều trăm binh sỹ bộ binh và hải quân thiệt mạng. Con số bị thương gấp đôi. Iwo nằm bất tỉnh. Mọi người đều ù tai nhức óc dưới hàng nhiều ngàn quả đạn đại pháo rớt không ngưng nghỉ lên hòn đảo nhỏ bé. Binh sĩ thuộc tiểu đoàn phòng thủ trở nên đần độn, ngù ngờ bởi cuộc pháo kích khủng khiếp mà họ đã chịu đựng. Đầu óc họ rối loạn, họ ăn nói không đâu vô đâu.
Nhưng nhóm phi công nhỏ nhoi còn tồn tại đã gây sửng sốt không kém gì trận mưa pháo. Nhỏ nhoi, nhưng nhóm phi công không có phi cơ chúng tôi quyết tâm bảo vệ hòn đảo, chống lại cuộc đổ bộ mà mọi người đều tin tưởng sẽ xảy ra không chóng thì chầy. Chúng tôi tổ chức thành “ Đại đội Thủy quân Iwo Jima” thề nguyền đâu lưng với những binh sĩ bộ binh còn sống sót chiến đấu cho đến người cuối cùng. Chúng tôi nhận võ khí và đạn dược. Chắc chắn chúng tôi sẽ bị tiêu diệt cấp kỳ. Nếu người Mỹ chiếm Saipan (việc nầy hình như đã xảy ra rồi), nếu họ nắm ưu thế tuyệt đối trên không, nếu các tàu chiến của họ khinh thường hạm đội của chúng tôi, chạy qua chạy lại sát Iwo Jima một cách ngạo mạn, thử hỏi họ không thể nào nuốt trôi hệ thống phòng thủ le que của chúng tôi hay không?
Truyền tin Iwo Jima kêu gọi Yokosuka gởi viện binh liên hồi. Chúng tôi xin thêm chiến đấu cơ. Chúng tôi xin bất cứ thứ gì mà chúng tôi có thể bay được! Yokosuka không có gì cả. Ba mươi chiến đấu cơ Zero theo chúng tôi đến Iwo Jima là những chiến đấu cơ khả dụng cuối cùng. Không cơ hơn nữa! Rối loạn đang ngự trị tại Bộ Tư Lịnh Tối Cao ở Đông Kinh.
Tiếng la hân hoan, tiếng thét vui mừng đánh thức chúng tôi vào một buổi sáng, không lâu sau cuộc oanh kích tàn khốc. Hải quân không quên chúng tôi. Nhiều quân vận hạm xuất hiện ở chân trời, hướng về hòn đảo. Chúng tôi chạy xuống bờ biển vừa cười vừa la vừa nhìn các quân vận hạm phụt lên những tia lửa và nước, chìm ngay trước mắt chúng tôi. tiềm thủy đỉnh Mỹ đã tiên đoán một cuộc di chuyển như vậy và chờ đợi để ra tay.
Thảm hoạ cuối cùng nầy là thảm họa quyết định. Nó trở thành hiển nhiên rằng chúng tôi đang hoi hóp, rằng trong vòng một hoặc hai giờ sau cuộc đổ bộ, người Mỹ sẽ kiểm soát Iwo. Chúng tôi cảm thấy chỉ còn sống sót một đôi ngày.
Người Mỹ không đến. Hết giờ nầy sang giờ khác, các quan sát viên trên những vọng canh từ đầu đảo đến cuối đảo chăm chăm nhìn ra biển, tìm kiếm hạm đội đổ bộ. Hết lần nầy đến lần khác, một quan sát viên vì quá căng thẳng tưởng như nhìn thấy một vật gì đó trên mặt biển nên vội vã báo động. Chuông, tù và, trống hay bất cứ thứ gì có thể gây ra tiếng động, đã phá tan sự yên tĩnh của hòn đảo với một âm thanh khiếp hãi. Chúng tôi lăn khỏi giường, mặt mày đanh lại, ghìm võ khí, sẵn sàng chiến đấu. Nhưng không có gì xảy ra.
Dĩ nhiên, chúng tôi không biết người Mỹ đã quay hướng sang Philippine, và cho mãi đến tám tháng sau họ mới quày lại Iwo Jima. Trong suốt tám tháng nầy, đại tướng Tadamachi Kuribayashi đã đặt chân lên hòn đảo, mang theo 17.500 binh sĩ bộ binh và gần 6.000 binh sĩ hải quân. Ông biến Iwo Jima thành một pháo đài kiên cố, với những công sự nổi và hệ thống phòng thủ ngầm mạnh mẽ. Ông đổ binh sĩ cho đến khi hòn đảo không còn chổ để chứa.
( Sau nầy, nhiều nhân vật lảnh đạo quân sự Nhật Bản cho rằng cuộc chiến sẽ kết thúc sớm hơn nếu người Mỹ tấn công Iwo Jima vào tháng Bảy năm 1944, thay vì chần chờ cho đến tám tháng sau. Theo những nhân vật nầy, cuộc đổ bộ ở Philippine là một cuộc đổ bộ vĩ đại và đắc giá, rất thành công đối với người Mỹ, nhưng lại là một mặt trận vô nghĩa, gây trì trệ sự chiến bại đã nhìn thấy trước mắt của Nhật Bản ).
Cuối cùng, cuộc đổ bộ được phỏng đoán từ lâu đã đến vào ngày 19 tháng Hai năm 1945, qui tụ một sức mạnh quân sự vĩ đại. Theo hải quân Hoa Kỳ, lực lượng của cuộc đổ bộ gồm 495 chiến hạm, trong đó có 17 hàng không mẫu hạm. Tin tức chánh thức của chính phủ Hoa Kỳ cho biết thêm về con số phi cơ không thể tưởng tượng đã yểm trợ cho cuộc đổ quân lên Iwo Jima: 1170 chiến đấu cơ và oanh tạc cơ.
( Tổng số 75.144 binh sĩ chiến đấu Hoa Kỳ đã tham dự vào mặt trận gay go nhứt của toàn thể cuộc chiến nầy. Khi các trận đánh trên hòn đảo chấm dứt, 5.324 binh sĩ Hoa Kỳ thiệt mạng và 16.000 bị thương. Cho mãi đến ngày 16 tháng Ba, Hoa Kỳ mới công bố đã kiểm soát được hòn đảo hoàn toàn, khi tên quân phòng thủ cuối cùng của Nhật Bản bị giết )
Sau nhiều lần báo động đổ bộ hụt, một công điện từ Yokosuka đã gây kinh ngạc cho chúng tôi. Bộ Tư Lịnh Yokosuka thông báo cho chúng tôi biết tất cả sĩ quan tham mưu và phi công được rút về Nhựt bằng phi cơ đưa tin. Những phi cơ nầy đang trên đường đến Iwo Jima.
Việc bất ngờ nầy đã gây hưng phấn cho bọn phi công chúng tôi. Chúng tôi đã chuẩn bị chiến đấu đến hơi thở cuối cùng trên mặt đất … và bây giờ mạng sống của chúng tôi được phục hồi. Chúng tôi buông súng và chạy ùa ra phi trường chánh tiếp tay với các cơ khí viên và bộ binh để lấp hàng nhiều trăm lổ hủng do đạn đại pháo địch gây ra.
Chúng tôi không bao giờ hy vọng một phép lạ xảy ra do đó không ai nghỉ đến việc sửa chữa phi đạo sau cuộc pháo kích ngày 4 tháng Bảy. Tôi nằm trong số những phi công biến thành cu li, làm việc sốt sắng và hăng say. Dĩ nhiên, không phải tất cả mọi người đều vui vẽ. Còn những người phải ở lại. Chẳng hạn như các nhân viên bảo trì cũng như đơn vị bộ binh phòng ngự. Những người nầy, không ai thốt một lời phản kháng quyết định bỏ họ ở lại, nhưng có thể nhìn thấy sự đố kỹ thuật và phẩn uất trên nét mặt của họ.
Quá trưa ngày hôm đó, những chiếc phi cơ đưa tin đầu tiên đáp xuống. Đó là những oanh tạc cơ phế thải, lần lượt sà sát mặt nước để tránh ra đa trên các chiến hạm địch quanh quẩn trong khu vực, khám phá. Thật may cho chúng tôi, trong suốt thời gian phi cơ đáp xuống và cất cánh, không có một chiến đấu cơ nào của Hoa Kỳ xuất hiện. Có tất cả 7 oanh tạc cơ hai máy đến chở những người được chọn để trở về Nhựt.
Ngay cả hệ thống quân giai chặt chẽ đã từng áp dụng cũng trở thành vô hiệu trong tình cảnh tuyệt vọng của chúng tôi ở đây. Mỗi người được di tản lần lượt lên phi cơ theo thứ tự xếp hàng.
Nhóm của tôi gồm 11 hạ sĩ quan và binh sĩ phải ở lại vì không đủ chổ. Chúng tôi nhìn đăm đăm theo chiếc phi cơ cuối cùng lướt trên không trung trực chỉ về Nhựt.
Ngày hôm sau, một phi cơ duy nhứt quày lại hòn đảo để đón chúng tôi. Tôi mất tin tưởng khi nhìn thấy chiếc phi cơ lảo đảo trên phi đạo. Không chỉ là một chiếc phi cơ phế thải, nhưng còn tồi tệ đến nổi khó thể tưởng nó có thể bay được. Với 11 người chúng tôi chất lên, chiếc phi cơ xiêng xẹo chạy ra phi đạo. Nó không thể nào đạt đủ tốc lực để cất cánh, và một động cơ bốc khói từng cuộn. Viên phi công phải quay lại, và các cơ khí viên bắt tay sửa chữa ròng rã hai tiếng đồng hồ. Hai giờ bằng hai tuần đối với chúng tôi. Chúng tôi cứ dõi mắt lên trời, lo ngại chiến đấu cơ Hellcat xuất hiện rót đạn vô chiếc oanh tạc cơ già nua. Chỉ cần một chiếc Hellcat cũng đủ chôn chân chúng tôi trên hòn đảo.
Cuối cùng công việc sửa chữa hoàn tất. Khi chúng tôi bước lên phi cơ, nhân viên dưới mặt đất nhìn theo với đầy tuyệt vọng cho đến nỗi tôi phải quay lại nói với họ: “ Chúng tôi sẽ sớm trở lại. Và sẽ trở lại sớm, với những chiến đấu cơ mới!”
Không ai trong số những người ở lại dám mơ tưởng rằng Iwo Jima sẽ được địch quân bỏ quên gần tám thàng ròng rã.
Khi chúng tôi bay được mười phút, chiếc phi cơ lắc lư mạnh mẽ. Tôi nhìn ra cửa sổ. Động cơ bên phải của chiếc phi cơ càng lúc càng lung lay dữ dội. Đóng sắt vụn nầy làm sao nuốt trôi 650 dặm để đưa chúng tôi về Nhựt ?
Phi công phụ, một thanh niên khoảng hai mươi tuổi, bước vô phòng lái, “ Chuẩn úy Sakai? Thưa chuẩn úy, chuẩn úy có thể bước vô phòng lái để giúp chúng tôi không?” Mặt hắn tái xanh và run còn hơn chiếc phi cơ.
Đoán biết hắn muốn gì, tôi đáp trước khi hắn dứt lời. “ Quày lại! Với động cơ như vậy chúng ta không thể về tới Nhựt đâu. Các anh phải quày phi cơ lại để sửa chữa nữa.”
Phi hành đoàn vâng lời lập tức. Trở lại Iwo, lui cui sửa chữa, và phi cơ lại cất cánh. Một giờ sau, chúng tôi chui vô một trận mưa bão cuồng nộ. Mưa đập liên hồi và mạnh mẽ trên thân chiếc phi cơ. Phi cơ dột nát, nước chảy xuống giống như một cái rây. Viên phi công phụ lại quày ra và yêu cầu tôibc vô phòng lái.
Viên phi công trưởng khoảng hai mươi hai tuổi, hỏi tôi:
“ Thưa chuẩn úy, chúng ta nên bay phía trên hay phía dưới lớp mây?”
“ Phía dưới!” Tôi ra lịnh.
Mưa bão vẫn tiếp tục, mù mịt đến nỗi nhiều lần mắt chúng tôi như bị bịt kín. Cơn bão nầy dữ dội hơn cơn bão mà tôi đã gặp mấy ngày trước đây, lúc tôi còn cố tìm kiếm lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ ở gần Saipan. Chiếc oanh tạc cơ trồi lên hụp xuống, và rơi thấp dần cho đến khi bay hớt trên đầu ngọn sóng. Trong cơn tuyệt vọng, hắn quay khuôn mặt xanh xám sang tôi và hỏi một câu thật bi ai. “ Bây giờ, chúng ta ở đâu, thưa chuẩn úy.”
Đó là một câu hỏi đần độn nhứt mà tôi được nghe từ miệng một viên phi công. Tôi sửng sốt mất một vài giây, không thốt nên lời. “ Xuống đi! Tôi lái cho!”. Tôi hét. Hắn không phí thời giờ, rời khỏi ghế ngồi trao tay lái cho tôi.
Gần chín mươi phút tôi bay như kẻ đui mù, cố đưa chiếc phi cơ què quặt ra khỏi cơn mưa bão. Cuối cùng, bán đảo quen thuộc phía Nam vịnh Đông Kinh hiện ra trong tầm mắt.
Tiếng kêu mừng rỡ của phi hành đoàn và hành khách làm rung chuyển chiếc oanh tạc cơ.
Chúng tôi đáp xuống căn cứ oanh tạc cơ Kisarazu, nằm phía bên kia vịnh, đối diện Yokosuka. Tôi đảo mắt quanh phi trường rộng lớn. Nhật Bản! Tôi lại đặt chân lên quê hương! Đã bao lần tôi tưởng không bao giờ nhìn thấy lại xứ sở. Chỉ một đôi giờ bay mà giữa đây và Iwo Jima khác biệt biết bao!
Đối với tôi, và mười người khác vừa rời bỏ đóng tro than của núi Hades trên đảo Iwo lại sau lưng, nước ngọt ngào và trong lành ở Nhật Bản là vật qúi nhứt trên thế gian nầy. Nước ở đây không có mùi tro than dễ sợ như những mưa hứng ở Iwo Jima. Tất cả chúng tôi chạy băng qua sân bay để đến một tháp chứa nước. Chúng tôi mở bòi cho nước mát lạnh bắn tung lên. Tôi uống lấy uống để, thưởng thức cảm giác và mùi vị cùng tận của nước ngọt chảy xuống cổ họng mình.
Nhưng Iwo Jima quá gần phía sau tôi. Muto và tôi đã cùng chung ý nghĩ, nên bỗng nhiên chúng tôi không thể nào uống thêm được nữa. cả hai cùng nghỉ đến những đồng đội, những người đã chết chỉ một đôi ngày trước đây do thương tích của đạn pháo gây ra, kêu gào trong cơn hấp hối: “ Nước ! Nước”. Họ xin nước chúng tôi, nhưng không ai còn một giọt nào cả.
Một tháng sau khi tôi trở về Yokosuka, tôi được thăng cấp Thiếu úy. Sau mười một năm, tôi tiếnlên địa vị của một sỹ quan chánh thức. Đó là một thành tích vượt bực trong binh chủng hải quân.
Có nhiều quân nhân tham dự trận tấn công tiềm thủy đỉnh vô Trân Châu Cảng đã được thăng đến hai cấp, và trong số đó có người bước ngay lên hàng ngũ sĩ quan, mười năm sau khi họ nhập ngũ. Tuy nhiên, việc thăng thưởng của họ giữ đúng truyền thống của hải quân: thăng cấp sau khi qua đời. Tôi là binh sĩ đầu tiên bước lên cấp bậc sĩ quan chánh thức trong vòng 11 năm mà vẫn còn sống sót.
Muto và tôi được tái bổ nhiệm phục vụ ở Liên Không Đoàn Yokosuka. Chúng tôi không bị gởi trở lại Iwo Jima. Bộ Tư Lịnh Tốc Cao bắt buộc phải bỏ trống không phận hòn đảo trong nhiều tháng sắp tới vì lý do thiếu phi công và phi cơ.
Hiện thời cuộc đổ bộ của địch quân ở Philippine đã nhìn thấy rõ rệt, do đó bao nhiêu phi công và phi cơ đều đổ sang để bao che cho lực lượng Nhựt trên quần đảo nầy. Chúng tôi có gặp trung tá Nakajima khi ông lên đường nhận nhiệm vụ mới ở Cebu ( Philippine).
Nhiệm vụ mới của tôi là một sự thay đổi đáng phấn khởi so với những cú đấm bi thảm mà chúng tôi chịu đựng ở Iwo Jima. Nhiệm vụ nầy bao gồm công việc huấn luyện tân phi công và thí nghiệm phi cơ.
Bộ Tư Lịnh Tối Cao ra lịnh sản xuất hàng loạt chiến đấu cơ mới để thay thế loại chiến đấu cơ Zero. Ngay cả những sĩ quan cố chấp nhứt cũng không thể nào phủ nhận loại chiến đấu cơ Zero, có lần được xem làm mạnh mẽ, hiện thời đã mất khả năng của chúng. Họ cũng phải công nhận các loại chiến đấu cơ mới của đối phương trên chân các loại chiến đấu cơ cũ của chúng tôi nhiều. Ở quần đảo Mariana và ở các cuộc đụng độ hải không khác, chiến đấu cơ Grumman F6F Hellcat đã chứng tỏ ưu thế đáng nể về mọi mặt.
Nhiều báo cáo từ Nam Thái Bình Dương cho biết loại chiến đấu cơ mới Lockheed P.38 Lightning có những cải tiến lớn, vượt hẳn loại chiến đấu cơ cùng loại đã lâm trận hồi cuối năm 1942. Loại P.38 mới nầy có tốc lực nhanh, bay cao hơn chiến đấu cơ Zero rất xa, nhứt là khả năng chúi xuống và vượt lên cũng mau lẹ hơn. Phi công P.38 bay ở cao độ như vậy có thể chọn lựa thời gian và không gian để đánh … với kết quả đầy bi thảm cho phi công của chúng tôi.
Cũng không thể hồ nghi khả năng loại chiến đấu cơ Change Vought F4U Corsair của Thủy Quân Lục Chiến và Hải Quân Hoa Kỳ, hầu hết đều hoạt động từ các căn cứ trên đất liền. Nhanh nhẹn không bằng loại Hellcat, tuy nhiên loại Corsair có tốc lực nhanh hơn loại Zero nhiều, và có tốc độ bổ nhào khủng khiếp.
Các phi công Lục quân của chúng tôi ở Miến Điện đã báo cáo đụng độ với nhiều loại phi cơ mới của địch quân, như loại North American P.51 Mustang, vượt trội chiến đấu cơ Zero về tầm hoạt động xa. P.51 Mustang ra mắt lần đầu tiên khi hộ tống các oanh tạc cơ B.24 Liberator bốn máy dội bom lãnh thổ nhựt hồi tháng 11 năm 1943.
Và điều hiển nhiên Nhật Bản hoàn toàn không chuẩn bị để ứng phó với siêu pháo đài bay B.29 lần đầu tiên xuất phát từ các phi trường ở Trung Hoa bay đến thành phố Kyushu. Những chiến đấu cơ Hayabusa của Lục quân đã bó tay trước loại oanh tạc cơ bay mau, trang bị hùng hậu và bọc thiết giáp nầy. Nếu loại oanh tạc cơ B.17 đã từng là một đối thủ phi thường thì loại oanh tạc cơ B.29 nầy là một đối thủ không thể nào thắng nổi.
Những ý niệm phòng thủ thích nghi của Bộ Tư Lịnh Tối Cao Nhựt được đưa ra quá muộn, và cũng quá khiếm khuyết. Đa số chiến đấu cơ của chúng tôi là loại Zero, tỏ ra hữu hiệu trong thế công vào những ngày đầu của cuộc chiến, nhưng tỏ ra vô dụng khi chống lại loại oanh tạc cơ B.29. Hầu hết phi công oanh tạc cơ Nhựt vẫn còn bay loại Mitsubishi Betty, hiện thời quá cũ kĩ, quá chậm chạp, và chỉ còn lại đặc điểm duy nhứt là biến thành ngọn đuốc trước hoả lực của đối phương.
Sự thất thủ của Saipan đã thúc đẩy việc phá vỡ bất ngờ những mạng nhện nằm trong kế hoạch của Nhật Bản, Bộ Tư Lịnh Tối Cao kêu gào chiến đấu cơ mới, vượt trội hơn loại chiến đấu cơ Zero.
Vào Tháng Mười Một, tôi bắt đầu bay thử hai loại chiến đấu cơ mới. Đầu tiên là loại Shiden (Tia chớp), người Mỹ gọi là George, nặng nề và tầm hoạt động kém hơn loại Zero, nhưng tốc lực mau hơn và được trang bị đến bốn khẩu đại bác 20 ly. Shiden kiến trúc vững chắc, võ bọc sắt an toàn cho phi công. Tôi đã phải kinh ngạc về sự nhanh nhẹn trong thân thể nặng nề của loại phi cơ nầy.
Không may, đặc tính của chiến đấu cơ Shiden là hay dỡ chứng đòi hỏi phải có một phi công đầy đủ kinh nghiệm. Nhiều người đã có dịp bay thử với Shiden, nhưng không có dịp sống sót để lâm trận với nó. Loại chiến đấu cơ mới thứ hai là Raiden (Sấm sét), người Mỹ gọi là Jack, trù tính chống lại oanh tạc cơ hạng nặng như B.29 chẳng hạn. Vì mục đích nầy, Raiden được chế tạo rất hoàn hảo, và nhiều phi công Nhựt so sánh nó với loại chiến đấu cơ to lớn Focke Wulf Fw 190 của Đức. Bốn đại bác 20 ly đem tới cho Raiden một quả đấm hiệu quả trong việc chống lại các oanh tạc cơ, và với tốc lực hơn 400 dặm một giờ, được coi là phi thường lúc đó, nó vượt xa loại Zero. Ngay với trang bị và thân bọc thép dày của Raiden, loại chiến đấu cơ Zero đã không bì kịp rồi.
Raiden rất thích hợp để tấn công oanh tạc cơ, nhưng giống như loại Shiden, nó đòi hỏi tài ba của người lái. Bởi lẻ chỉ chú trọng đến tốc lực và trang bị, nên sự xoay trở lanh lẹ của Raiden rất yếu, so với loại Zero trên phương diện nầy, Raiden giống như một chiếc xe hơi. Chúng tôi chịu đựng sự mất mát đáng sợ trong khi huấn luyện. Sau nầy, khi những chiếc Hellcat và Mustang gầm thét trên không phận Nhật Bản, những phi công lái Raiden đụng độ với đối phương mới nhận thấy sự xoay trở yếu kém của nó, nhưng tất cả đều quá muộn.
Nhiệm vụ thí nghiệm phi cơ đã cho tôi cơ hội thăm viếng gia đình người chú họ một lần nữa. Tôi rời Yokosuka vào một sáng sớm Chủ Nhựt để đến nhà chú tôi, lộ trình đi ngang qua Đông Kinh.
Trong thời gian tôi vắng mặt, thủ đô sa sút hơn. Mặc dù từ năm 1942 không có trận oanh tạc nào xảy ra, nhưng phố xá có vẻ buồn tẻ và mất sinh khí. Hầu hết các tiệm buôn đều đóng cửa. Việc nầy có ý nghĩa rõ rệt. Không có hàng để bán và các chủ nhân vắng mặt, họ vô làm việc trong các cơ xưởng chiến tranh. Một vài tiệm buôn gượng gạo mở cửa, nhưng không còn sắc thái rộn rịp như tôi đã từng thấy trước đây, chỉ lèo tèo vài món hàng meo móc. Sự phong toả của Đồng Minh đã làm cho cái bụng của Nhật Bản thắt lại.
Tôi không ngớt đi qua những đám đông công nhân đang phá hủy nhà cửa dọc theo hai bên đường. Hàng mấy trăm người làm công việc nầy, nhằm dọn những khoảng trống để lửa không bắt qua, phòng ngừa trước các cuộc oanh tạc. Nhiều gia đình bắt buộc ra khỏi nhà, đứng thành từng nhóm nhỏ trên đường, đưa mắt buồn bã nhìn người ta xé nát căn nhà của mình ra mảnh vụn.
Tôi đã từng chứng kiến các trận oanh tạc. Đối với tôi công tác phá hủy nầy là một cố gắng đáng thương hại, một nổ lực hoang phí, ít có hiệu quả trong việc chống lại loại bom cháy.
Hầu hết dân chúng đi trên đường đều mặc đồng phục làm việc, hoặc loại quần án căn bản của thời chiến, na ná như quân phục. Tôi không nhìn thấy một người đàn bà nào mặc y phục “Ngày Chúa Nhựt”, những chiếc Kimono màu sặc sỡ thời tiền chiến. Thay vào đó, họ mặc áo “Monpe” màu nâu sậm, và quần vải trơn rộng thùng thình.
Mỗi góc phố đều có đàn bà và trẻ con nối đuôi dài ngoằn, kiên nhẫn chờ đợi mau thức ăn. Mặt mày họ gầy tóp và lạnh lùng, chứng minh hùng hồn tình trạng thiếu thực phẩm đang đè nặng trên đời sống dân chúng.
Không phải mọi thứ đều đổi thay. Mấy chiếc loa phóng thanh đặt ở mỗi góc phố vẫn còn xỉa xói vô tai những lời hò hét, ca ngợi các chiến thắng tưởng tượng. Bích chơpng tràn ngập thành phố, kêu gọi dân chúng sản xuất mạnh mẽ hơn, chịu đựng thiếu thốn nhiều hơn, cho đến khi Nhật Bản hạ gục đối phương.
Tôi cảm thấy bịnh hoạn. Chưa bao giờ tôi tưởng tượng mình sẽ được nhìn thấy nỗi khổ tận cùng hằn sâu trên gương mặt của dân chúng Nhựt đến mức ấy.
Tôi chờ nhiều phút trước cửa nhà chú tôi. Có người đang dạo dương cầm … người đólà Hatsuyo chớ không ai khác. Tôi lắng nghe trong giây lát, khúc nhạc đầu tiên của nhiều tháng trước đây. Tiếng nhạc ngưng lại khi tôi gõ cửa. Tôi nghe tiếng chân của Hatsuyo chạy.
Nụ cười của nàng rạng rỡ như một tia nắng ban mai. “Saburo! Ồ, gặp lại anh thật tuyệt dịu!” Nàng kêu lên. Nàng nhìn tôi chăm chú hồi lâu. “Tất cả gia đình đều cầu nguyện cho anh trở về, Saburo,” giọng nàng êm ái. “Mọi người hầu như đều gặp mau mắn. Anh trở về rồi đây, và đã trở thành một sỹ quan.”
Ngôi nhà quen thuộc không có gì đổi khác. Đối với tôi, vẫn là ngôi nhà đẹp hơn bất kì ngôi nhà nào khác, bởi ngôi nhà nầy là của Hatsuyo. “Em càng ngày càng đẹp,” tôi nói “một vật mỹ lệ nhứt mà anh được thấy trong nhiều tháng nay. Nhưng tại sao em ăn mặc như vậy? Em là anh choá cả mắt,” tôi tỏ vẻ lạ lùng. Nàng mặc một chiếc áo Kimono trang nhã, thẳng nếp và gọn ghẻ trên thân hình mảnh khảnh của nàng.
Nàng cười dòn tan. “Saburo, thỉnh thoảng anh giống như một gã ngù ngờ! Anh không biết đây là một trường hợp đặt biệt hay sao? Em mặc áo nầy là mặc cho anh. Em kiên nhẫn chờ đợi để được mặc nó khi tiếp đón một tân sĩ quan!” Nàng cười. “ Đây, hãy nhìn hai cái tay áo nầy?” Hai tay áo bị cắt cụt phân nữa!
“ Chính phủ ra lịnh cho chúng em cắt ngắn tay áo,” nàng cười thích thú, xoay vòng quanh, hai bàn tay đưa về phía trước. “Anh không biết hả,” nàng thì thầm với dáng vẻ nghiêm trọng, “tay áo dàu không thích hợp với tình trạng nguy cấp hiện thời.”
Tôi mỉm cười. “Hatsuyo, mọi người đi đâu hết rồi?” tôi hỏi. “Chú thím không có ở nhà hả?”
Nàng lắc đầu. “ Chỉ một mình em ở nhà để đón anh, Saburo. Ba em không có ngày nghỉ. Ông tình nguyện tham gia vào công việc bảo vệ quê hương. Ông gia nhập vào Quân Đoàn Trù Bị Lục Quân và hiện đang tập tành ở một ngôi trường trung học gần đây. Đêm nay Michio sẽ làm việc phụ trội trong cơ xưởng.”
Mặt nàng trở nên u ám. “Má em cũng đi khỏi, Saburo. Bà định mua một cái gì đặt biệt để tiếp đãi anh ở … ở chợ đen.”
Tôi nhìn Hatsuyo. Nếu thím tôi làm như vậy, bà sẽ gặp rắc rối với cảnh sát. “Tại sao thím lại làm như vậy? Tôi lo nghĩt. “Thím không biết việc gì có thể xảy ra cho thím hay sao?”
“Em biết, em biết, Saburo”. Nhưng bà cứ muốn được tiếp đón anh một cách vui vẻ.
Tôi lắc đầu. “Hy vọng mọi việc đều êm xuôi. Khi gọi giây nói cho thím, anh có cho thím biết hiện thời không một quân nhân nào đến thăm một gia đình dân sự lại không mang theo phần ăn của mình bao giờ”. Tôi chỉ cho Hatsuyo thấy cái hộp thức ăn tôi mang theo, cũng như nhiều tặng phẩm khác mà tôi đã mua trong hợp tác xã quân đội Yokosuka.
Hatsuyo bối rối. “ Cám ơn anh, Saburo, và em … cám ơn anh”
Nàng nói lãng sang vấn đề khác. “Hãy đến ngôi đây, Saburo. Rồi, bây giờ anh kể cho em nghe mọi chuyện từ ngày anh ra đi. Những gì đã xảy ra ở Iwo Jima? Gia đình không nghe đài phát thanh đề cập đến, chỉ toàn là tin tức về cuộc chiến đấu khủng khiếp ở Saipan.”
Tôi bối rối. Chúng tôi có nhận được nghiêm lịnh không được tiết lộ những gì đã xảy ra ở Iwo Jima. Thảm họa mà lực lượng chúng tôi chịu đựng ở đó được xếp vào hàng tối mật, và không ai bên ngoài quân đội được biết đến sự thật xảy ra.
Tôi xoay vấn đề, kể về chuyện những chiến đấu cơ mới mà tôi đã bay thử. “Nếu chúng ta có đủ những chiến đấu cơ mới nầy, chúng ta có thể lật ngược tình thế,” tôi nói “ Với tốc độ phi thường, võ trang hùng hậu, loại phi cơ mới đủ sức tiêu diệt bất kì loại phi cơ nào của địch quân.” Tôi nói dối, tôi ý thức được điều nầy. nếu cuộc huấn luyện cứ giữ một mực, với các khoá sinh đâm đầu xuống đất hàng ngày, chúng tôi chỉ có một vài phi cơ may mắn lên được trên không cho tới lúc chiến đấu.
Sau nửa giờ nói chuyện quanh quẩn mọi vấn đề, có một vấn đề cần thiết nhứt mà tôi chưa nói. Tôi liếc nhìn dáng ngồi nghiêng của nàng, nhìn điệu bộ khi nàng nói, đôi mắt ngời sáng khi nàng thích thú, đôi má lúm đồng tiền khi nàng cười.
Tôi muốn nói với Hatsuyo, nói một mạch không cần suy nghỉ. Tôi yêu nàng. Tôi muốn nàng biết tất cả mọi suy nghỉ của tôi. Hai tháng qua, nhưng đối với tôi hình như chỉ một đôi phút đây thôi, khi tôi quay đầu lại và nhìn thấy Iwo Jima tan biến dần ở chân trời thì hình ảnh của nàng hiện đến. Lúc ấy tôi nguyện với lòng rằng, nếu có một phép lạ nào đó mà tôi còn sống sót, tôi sẽ kể cho nàng nghe tất cả những cảm nghỉ của mình.
Bây giờ … tôi không thể nói! Không có gì thay đổi cả! Tôi vẫn là một phi công cd, cho dù tôi đã bước lên hàng ngũ sĩ quan. Tôi biết, tôi sẽ bay chiến đấu trở lại, và những chiếc Zero bùng cháy mà tôi đã nhìn thấy rơi xuống trước họng súng của những chiến đấu cơ Hellcat vẫn còn in đậm trong tâm trí của tôi. Tôi biết, chúng tôi phải đương đầu với những đối thủ vượt trội. Nếu chiến đấu trở lại, tôi sẽ đâm đầu xuống đất và chết cháy. Không biết giây phút nào.
Bỗng nhiên Hatsuyo làm tôi bừng tĩnh. “ Saburo,” nàng dịu dàng nói, “Anh có biết Fujiko đã lấy chồng rồi không?”
Tôi không biết. “ Sau khi mọi chuyện êm lắng,” nàng nói tiếp, “Fujiko kết hôn với một phi công. Một phi công. Giống như anh.” Nàng thêm, giọng châm chọc.
Tôi muốn nói, nhưng nàng tiếp. “Saburo, tại sao anh chưa chịu lập gia đình? Anh không còn trẻ nữa, anh biết rồi. Anh đã hai mươi bảy tuổi đầu. Anh đã nên người. Anh đã là một sĩ quan. Anh nên lo việc hôn nhân.”
“ Nhưng anh đã nói với em, Hatsuyo, anh không quen biết một cô gái nào hợp với anh cả.”
“ Anh không yêu Fujiko?”
Tôi không biết nói sao. Một nỗi im lặng nặng nề vây lấy chúng tôi. Hatsuyo bước đến vặn nút chiếc máy phát thanh, bắt giờ nhạc êm dịu buổi trưa. Âm nhạc phá tan không khí nặng nề.
Nàng quay lại và ngồi xuống bên tôi. “Được rồi,” nàng nói, “dĩ nhiên, Saburo, anh cần phải tìm một người vợ thích hợp với anh mọi mặt.”
Hatsuyo đang làm tôi bối rối. Nàng không chịu nhìn nơi khác, mắt của nàng cứ nhìn tôi đăm đăm. Tôi trở nên luống cuống, định nói nhưng miệng cứ ấp úng mãi
Tôi đứng ngay dậy và bước đến cửa sổ, đưa mắt nhìn ra ngoài. Vườn hoa xinh xắn biến mất, thay vào đó là những gốc rau.
“ Còn nhiều người đẹp hơn Fujiko nữa, Saburo,” Hatsuyo nói. Nàng đã đến bước đến phía sau tôi, và hiện tại hầu như thân thể nàng chạm vào tôi.
“ Hatsuyo!” Tôi la lớn. “Anh không muốn nói đến chuyện nầy nữa!” Cơn thịnh nộ của tôi khiến nàng hoảng hốt. “ Chúng ta đã nói đi nói lại bao nhiêu lần rồi. Nhưng thực tế không hề thay đổi. Không có gì thay đổi hết. Anh vẫn là một phi công, em biết chớ? Mỗi lần anh cất cánh là có thể anh không bao giờ trở về. Mỗi lần! Điều đó chắc chắn xảy ra, không chóng thì chầy. Không chóng thì chầy!”
Tôi bực bội và phiền não. Tại sao nàng cứ nói đi nói lại về chuyện hôn nhân? Tôi thấy tôi đáng ghét, do những lời lẽ mà tôi đã thốt ra. Tôi thấy tôi đáng ghét, vì không dám nói ra cảm nghỉ của mình cho nàng nghe.
“ Hiện tại không có một phi công nào mà không chuẩn bị để chết, Hatsuyo,” tôi giải thích. “ May mắn cỷa chúng anh được đặt ra ngoài. Tài ba vô dụng. Việc nầy…”
“ Anh nói giống như trẻ con. Saburo,” Đôi mắt nàng bừng lên nỗi giận dỗi. Tiếng nàng trầm xuống đến nổi tôi phải cố lắng nghe. “ Anh cứ nói vòng quanh, và anh không biết những gì anh đang nói. Anh không biết trái tim của một cô gái.”
Nàng giơ tay lên trong một dáng điệu giận dữ. “ Anh nói về chuyện bay bổng, anh về chuyện chết chóc, Saburo. Anh không biết nói gì khác hơn. Anh không biết nói về sự sống còn.”
Nàng bước đến tắt chiếc máy thâu thanh với một cử động giận dữ. Không thèm để ý đến tôi, nàng ngồi trước chiếc dương cầm, mấy ngón tay uể oải trên phím đàn.
Tôi câm miệng. Nhiều phút trôi qua, tôi đứng chôn chân một chổ, không nói một lời. Cuối cùng, tôi lên tiếng. “ Hatsuyo, anh … anh không biết. Có lẽ, nếu … Đó là lỗi của anh. Anh có thể làm gì được một khi chúng ta đang ở vào thời chiến?” Tôi nói lớn. “ Tại sao em cứ nói mãi vấn đề nầy?”.
“ Gặp em trong ngôi nhà nầy, như vậy đã là quá đủ đối với anh rồi.” Tôi tiếp. “ Anh muốn … ồ, anh không biết,” tôi ấp úng. “Tất cả những gì anh muốn biết, tất cả những gì mà anh ao ước là được thấy em vẫn còn sống sót và hạnh phúc.”
Nàng đập mạnh đôi tay lên phím đàn và quay lại. “Em không muốn sống nữa! Sống để làm gì và… và… ” Nàng đặt tay lên ngực: “Trống rỗng ở đây? Không một ai trong chúng ta, ngay cả một phi công, ngay cả những người trong ngôi nhà nầy có thể nhìn thấy trước sự sống còn. Anh không hiểu như vậy sao, Saburo?”
Cơn giận của nàng khiến tôi giật mình. “Một người đàn bà chỉ hạnh phúc,” nàng nói thẳng, “ một khi nàng được sống với người đàn ông mà nàng yêu thương. Cho dù, cho dù chỉ một đôi ngày cũng được.”
Nàng quay khuôn mặt bi thiết đi, dồn hết giận dữ lên chiếc dương cầm. Tôi đứng như trời trồng, không biết nói hoặc làm gì.

CHƯƠNG XXII


Vào ngày 30 tháng Mười, mười ngày sau các bính sĩ đầu tiên của Hoa Kỳ tràn lên bãi biển Philippine, Bộ Tư Lịnh Tối Cao Hoàng Gia đưa ra thông cáo lịch sử nầy:
“Đơn vị Shikishima, thuộc không đoàn Tấn Công Đặt Biệt, vào lúc 10 giờ 45 phút ngày 25 tháng Mười năm 1944 đã thành công trong một cuộc tấn công bất ngờ chống lại lực lượng đặc nhiệm đối phương, trong đó có 4 hàng không mẫu hạm, cách Đông Bắc đảo Suluan, thuộc quần đảo Phi Luật Tân, ba mươi hải lý. Hai phi cơ tấn công đặc biệt đã đâm nhào xuống một hàng không mẫu hạm địch, gây nhiều đám cháy và tiếng nổ lớn, và có lẽ chiếc tàu đã chìm. Một phi cơ thứ ba đã chúi xuống một hàng không mẫu hạm khác, gây một đám cháy khổng lồ. Một phi cơ thứ tư khác cũng chúi xuống một hàng không mẫu hạm, gây ra một tiếng nổ dữ dội và chiếc tàu đã chìm ngay sau đó.”
Tiếng sấm của của những ngọn Thần Phong đã bắt đầu. Nhiệm vụ tự sát đầu tiên do trung úy Yukio Seki thực hiện. Yukio cầm đầu 5 chiến đấu cơ Zero, mỗi chiếc mang một trái bom 550 cân Anh. Seki là một phi công oanh tạc cơ có khoảng 300 giờ bay, bốn phi công khác cũng không hơn hắn mấy. Tuy nhiên, chỉ có một trong năm chiếc không chúi trúng mục tiêu.
Bốn chiếc Zero bay theo hộ tống năm chiến đấu cơ tự sát. Sau đó tôi biết được người cầm đầu nhóm hộ tống là người bạn Hiroyoshi Nishizawa của tôi, hiện thời là một chuẩn úy. Nishizawa đã khéo léo né tránh sự ngăn chặn của hơn hai mươi chiếc Hellcat, đưa năm phi cơ Thần Phong xuyên qua những trận cuồng phong để tiến đến hạm đội địch quân.
Sau khi năm phi cơ Thần Phong đã chúi xuống, Nishizawa trở về sân bay Mabalacat ở Cebu, và báo cáo kết quả phi thường của nhiệm vụ.
Trong binh chủng hải quân, nơi nào các phi công cũng bàn về cuộc tấn công chưa từng có trước đây. Và cuộc tấn công đã đạt đến một kết quả rực rỡ nầy, trái ngược hẳn những mất mát đầy bi thảm trong cuộc tấn công của chúng tôi ở Iwo Jima. Trong tư cách một phi công chiến đấu, tôi không tán thành nhiệm vụ tự sát, nhưng hiện tại không thể phủ nhận hiệu quả của cú đấm kinh khiếp đã giáng xuống hạm đội Hoa Kỳ ở Philippine. Thật ra, ở hiện tại, tôi ý thức rằng việc bổ nhào xuống để tự sát có vẻ là phương pháp duy nhứt của chúng tôi để đánh trả lại tàu chiến Hoa Kỳ.
Từ ngày đó trở về sau, danh từ Kamikaze nằm trên đầu môi của chúng tôi. Chúng tôi biết mỗi lần Kamikaze cất cánh là mỗi lần đi vào cõi chết. Nhiều Kamikaze không thể nào tiến đến các mục tiêu, vì bị phi cơ nghinh chiến của đối phương bắn hạ hoặc bị những bức tường hoả lực phòng không kiên cố do các chiến hạm địch tạo ra ngăn chận.
Nhưng luôn có những Kamikaze vượt thoát để rồi nhào xuống chiến hạm địch giống như những hồn ma phục thù, có nhiều chiếc tiến đến mục tiêu với đôi cánh rách te tua hoặc bao trùm trong lửa đỏ. Thỉnh thoảng từng chiếc một, hai chiếc, hoặc cả nhóm từ sáu đến mười sáu chiếc Kamikaze lướt lên không trung cho lần đi cuối cùng.
Thần Phong đã cho chúng tôi một sức mạnh mới đầy kinh khiếp. Hiệu quả được nhìn thấy qua một một số chiến hạm và quân vận hạm địch, có lần là những mục tiêu khó xâm nhập vì được hoả lực bao che mạnh mẽ, hổn loạn trong cảnh xăng cháy, bom nổ và tiếng người la hét.
Những Kamikaze đã cào các hàng không mẫu hạm từ mũi đến lái, đánh chìm nhiều hơn bất kì loại vũ khí nào mà chúng tôi đã từng sử dụng để tấn công loại tàu nầy. Còn loại tuần dương hạm và khu trục hạm, mỗi lần Kamikaze chúi trúng thì đó như là một hồi chuông báo tử được giống lên.
Đối với địch quân, họ coi sự tự sát của phi công Nhựt là bị ép buộc. Dĩ nhiên người Mỹ hoặc bất kì người nào thuộc thế giới Tây Phương không thể hiểu biết đầy đủ vấn đề nầy. Họ cho rằng mạng sống của binh sĩ Nhựt bị quăng ra một cách rẽ rúng. Trái ngược hẳn, các phi công Kamikaze đã tình nguyện hàng loạt để thực hiện các nhiệm vụ một chiều của họ.
Nhiệm vụ nầy không thể gọi là tự sát! Những phi công, trẻ có già có, họ đã không chết một cách vô ích. Mỗi phi cơ chúi trúng mỗi chiến hạm địch một cú đấm mà phi công đã dành cho quê hương của họ. Mỗi trái bom Kamikaze rơi trúng các bồn chứa xăng của một hàng không mẫu hạm khổng lồ, sẽ có nhiều kẻ thù bị giết, triệt hạ nhiều phi cơ bay đến thả bom và bắn phá trên mảnh đất quê hương của họ.
Những người nầy có niềm tin. Họ tin vào nước Nhựt, họ đánh kẻ thù bằng chính mạng sống của họ, cho nước Nhựt. Đó là một cái giá rẽ, một người đánh đổi lấy mạng sống của hàng mấy trăm người đôi khi cả hàng mấy ngàn người. Xứ sở của chúng tôi không thể nào dựa vào sức mạnh của những chiến thuật thông thường hiện tại.
Tuy nhiên, một lần nữa, Thần Phong là một trường hợp quá ít ỏi, quá muộn màng. Ngay cả những thành quả vĩ đại được gặt hái bởi các phi vụ Kamikaze cũng không thể nào chận đứng cú đấm tập trung khủng khiếp của người Mỹ. Họ quá mạnh, quá nhiều, quá tiến bộ. Họ có quá nhiều chiến hạm, quá nhiều phi cơ, súng ống và nhân lực.
Dĩ nhiên, những phi công Nhựt thực hiện phi vụ của họ đều ý thức được việc nầy. Chắc chắn có nhiều phi công Thần Phong ra đi với thừa nhận tình thế tuyệt vọng của Nhật Bản trong cuộc chiến. Nhưng họ không co đầu rụt cổ, không do dự. Họ bay và chết cho xứ sở của họ.
Có những điềm xấu báo trước cho dân tộc chúng tôi. Một trong chiếc B.29 vĩ đại bay ù ù trên không phận Đông Kinh lần đầu tiên vào ngày 1 tháng 11 năm 1944, xuất phát từ các căn cứ mới trên đảo Saipan. Giờ phút hãi hùng của dân chúng ở kinh đô hầu như đã nằm trong tầm tay, vì điều hiển nhiên chiếc oanh tạc cơ đáng sợ đó chỉ là một phi cơ do thám lót đường cho những chiếc khác nối bước trong tương lai gần. Chiếc Siêu pháo đài bay đã lướt một cách nhởn nhơ, xa tít trên không phận Đông Kinh, và các chiến đấu cơ của Lục Quân cũng Hải Quân cuống cuồng nhảy lên để chận bắt kẻ xâm nhập. Nhưng tất cả đều không thể nào tiến sát để bắn ra một phát đạn.
Vào ngày 5 tháng 11, và một lần nữa vào ngày 7, một chiếc B.29 đơn thân độc mã từ Saipan đến viếng thăm thủ đô Đông Kinh. Lần thứ hai và thứ ba nầy, các chiến đấu cơ Nhựt đều ùa lên không, và cố đạt đến cao độ cho bằng phi cơ địch một cách vô ích. Bộ Tư Lịnh Tối Cao nổi nóng, chửi bọn phi công vụng về và ngu xuẩn. “Chỉ có một chiếc phi cơ địch mà không làm nên trò trống gi cả.” Họ thét.
Họ không hiểu sự khó khăn trong việc ngăn chặn các Siêu pháo đài bay ở cao độ đó. Một việc nữa, chỉ trong vòng một vài phút giữa thời gian nhận báo động và cất cánh không thể cho phép chiến đấu cơ lên đến nơi thì oanh tạc cơ địch đã bay mất. Cho dù có tiến lên kịp đi nữa, phi công Nhựt cũng không chắc có thể đuổi kịp tốc lực đáng kinh sợ của chiếc B.29.
Vào tháng Mười Hai, những cú đấm chờ đợi từ lâu đã đến. Đông Kinh, Osaka, Nagoya, Yokohama và nhiều thành phố lớn khác của xứ sở chúng tôi nằm khoanh dưới những đợt tấn công khủng khiếp của các oanh tạc cơ Hoa Kỳ. Chúng san bằng các cơ xưởng chế tạo máy bay, và hủy diệt lần lượt mọi cơ xưởng khác.
Những cuộc không tập khủng khiếp trên các thành phố lớn của Nhật Bản đã được lịch sử dành cho những chương vĩ đại nhứt. Đó là một câu chuyện mà cả thế giới đều biết rõ.
Các siêu pháo đài bay đều xuất hiện trong đêm, và hầu hết phi công Nhựt chỉ biết ngồi bó gối trên mặt đất, miệng không ngớt nguyền rủa sự yếu kém khả năng hoạt động đêm của chiến đấu cơ Nhựt và sự khiếm khuyết huấn luyện dạ chiến của họ. Phi cơ địch chỉ bị hoả lực phòng không phá rầy mà thôi.
Khắp nơi, chúng tôi đang thua. Mọi nơi, chúng tôi bị đối phương bắt buộc phải thối lui, phải triệt thoái. Các đơn vị không quân của chúng tôi bị cắt ra từng mảnh, phi cơ của chúng tôi rơi như lá rụng, phi công của chúng tôi không chết một người, hai người hoặc ba người lẻ tẻ, họ chết hàng mấy chục trở lên.

Vào giữa tháng Hai, năng lực phòng thủ Philippine của chúng tôi hấp hối. Mọi phi cơ Nhựt trên quần đảo đều biến mất, nếu không bị chiến đấu cơ Mỹ đẩy rớt xuống đất, thì cũng bị các cuộc tấn công Kamikaze thiêu rụi hết. Các cuộc tấn công nầy cứ tiếp tục cho đến khi không còn chiếc phi cơ nào để tiếp tục.
Vào ngày 20 tháng Giêng năm 1945, hải quân Hoàng Gia thành lập một không đoàn chiến đấu cơ mới, không đoàn cuối cùng của cuộc chiến, ở Matsuyama, trên đảo Shikoku. Khi thuyên chuyển đến căn cứ không quân mới, tôi gặp trung tá Nakajima, ông được chỉ định vào chức vụ chỉ huy phó không đoàn. Ông rút khỏi Philippine với mười lăm phi công chiến đấu cơ khác để lập nền tảng cho không đoàn mới. Đây là không đoàn bao gồm những tay chiến đấu tài ba. Chỉ huy trưởng không đoàn là đại tá Minoru Genda, được xem như là một trong những chiến lược gia hải quân sáng chói nhứt của Nhật Bản.
Nakajima là người duy nhứt mà tôi quen biết nhiều. Một hôm có dịp tôi vô văn phòng của ông với ý định nhắc nhở lại những người đã từng chiến đấu với chúng tôi trong quá khứ. Tôi đã lặng người khi ông cho tôi biết tin tức về cái chết của Nishizawa.
“Hắn đã mất”, Nakajima nói, “trong một trường hợp đáng tiếc xảy ra vào ngày 26 tháng Mười, ngay sau ngày cuộc tấn công Thần Phong đầu tiên.”
“Nishizawa đã tình nguyện tham dự phi vụ Thần Phong vào ngày kế đó, sau khi hộ tống năm chiến đấu cơ Zero chúi xuống chiến hạm địch trở về. Hắn nói với tôi rằng hắn sẽ chết sớm. Việc nầy thật lạ lùng,” Nakajima nghĩ ngợi, “nhưng Nishizawa nhấn mạnh rằng hắn có một linh cảm. Hắn cảm thấy đời sống của mình chỉ còn một đôi ngày nữa mà thôi.”
“Tôi không cho hắn đi. Một phi công tài ba như vậy, để hắn chiến đấu sẽ có ích cho xứ sở hơn là để hắn chúi xuống một hàng không mẫu hạm. Nhưng hắn cứ nằng nặc xin đi cho được.
“Nhưng, vào ngày chiếc chiến đấu cơ của Nishizawa chuẩn bị sẵn sàng thì hắn được lịnh lái một chiếc vận tải cơ DC3 cũ kỹ và không võ trang, trên đó có một số phi công khác, đến phi trường Clark để nhận một số chiến đấu cơ Zero. Chiếc vận tải cơ cất cánh vào sáng sớm ngày 26 tháng Mười từ Mabalacat và mất tích luôn.
“Phi cơ của hắn có lẽ bị chiến đấu cơ Hellcat hoạt động trong khu vực đó bắn hạ. Hình như hắn rớt ở một nơi nào đó ở Cebu. Tôi vẫn không thể nào tin nỗi, Saburo, một phi công vĩ đại như vậy lại chết như vậy, bất lực, không thể nào bắn được một phát súng tự vệ…” Không còn gì để nói. Như vậy là Nishizawa cũng ra đi. Vị thần sát tinh của các phi cơ địch ở Lae và Rabaul đã đi chung đường với Sasai, Ota và những người khác.
“Ngay cả trong tình trạng chiến đấu ở Philippine gian nan hơn trước đây cũng không thể phá nổi những chiến thắng trên không của hắn.” Nakajima nói, và ông tin rằng Nishizawa đã hạ hơn 100 phi cơ địch trong các trận không chiến. Điều nầy không thể nghi ngờ, cả tôi lẫn Nakajima hay bất kì người nào đã từng biết và chiến đấu với Nishizawa đều phải công nhận hắn là một “Ace” vĩ đại nhứt của Nhật Bản, một phi công có khả năng và tài ba vô tiền khoáng hậu. Vậy mà hắn đã thiệt mạng trong một vận tải cơ không võ trang! Tin tức về cái chết của hắn đã gây cho tôi một sự xúc động kì dị. Tôi trở về chổ trú khu, lấy giấy và viết ra. Ít nhứt, tôi nghĩ, trước khi chết tôi phải bày tỏ với Hatsuyo những gì mà tôi muốn nói, những gì mà tôi cảm thấy nàng cũng muốn biết.
“Anh đã được chỉ định vào nhiệm vụ chiến đấu trở lại,” tôi viết. “Từ đây trở về sau, Nhật Bản sẽ phải chống chọi lại với một kẻ thù vượt trội mọi mặt. Hôm nay, anh vừa nghe tin người bạn rất thân của anh, Hiroyoshi Nishizawa, đã bị thiệt mạng ở Philippine. Nishizawa là phi công vĩ đại nhứt của xứ sở chúng ta. Anh cảm thấy nếu một người như vậy mà không thể sống sót được thì đối với anh, bất lợi về mất một mắt, chắc chắn anh sẽ nối bước theo hắn không lâu.
“Có lẽ đây là bức thơ cuối cùng anh viết cho em. Thật là ngại ngùng, Hatsuyo, nhưng mà anh không thể nào chờ đợi lâu hơn nữa để bày tỏ những gì mà anh muốn nói từ lâu.
“Lần nói chuyện cuối cùng vừa rồi, em đã nói rằng anh không hiểu trái tim của một người đàn bà. Em đã sai lầm, Hatsuyo. Sai lầm quá đỗi.
“Em có nhớ lại những ngày thơ ấu của chúng ta không? Những ngày huyền diệu, tràn ngập tiếng cười đùa ấy? Anh và em đã sống như tình ruột thịt, và ngay cả thời gian sau nầy chúng ta vẫn còn cảm thấy như vậy.
“Những gì mà anh muốn nói với em từ lâu, Hatsuyo, là trong tim anh, em chính là người anh yêu mến nhứt trên quả đất nầy. Bây giờ, anh biết, anh đã coi em như một người mà anh đặt tình yêu duy nhứt vào đó. Có lẽ nói như vậy thật bậy, có lẽ điều nầy anh nói ra không phải lối nhưng anh tin rằng hình ảnh của em không lúc nào vắng bóng trong tim anh. Trước đây anh không biết, nhưng anh đã biết điều đó trong những tháng cuối cùng nầy.
“Anh đã yêu em từ lâu, Hatsuyo, và yêu em sâu đậm. Lúc ấy anh đã chôn dấu tình cảm thật sự của anh. Anh yêu em! Anh đã chờ đợi để thốt ra những lời nầy từ lâu lắm rồi. Chiến tranh đã dựng lên một hàng rào vĩ đại ngăn cách chúng ta. Anh ý thức rằng tình cảm của anh không bao giờ bày tỏ được, rằng tình yêu nầy sẽ chôn kín mãi mãi trong lòng.
“Hơn tất cả, chúng ta là anh em bà con. Có lẽ đó là điều tốt nhứt để đặt cuộc hôn nhân nằm phía bên kia tầm tay của chúng ta. Nhưng bây giờ, anh đã nói ra những gì cần nói. Và bây giờ, tình yêu của anh, đó là vật duy nhứt mà anh dành cho sự cầu nguyện. Mong em sống dài lâu, mong hạnh phúc sẽ thuộc về em mãi mãi.”

Sáng hôm sau công việc huấn luyện chiến đấu của chúng tôi bắt đầu phấn khởi. Các phi công la hét ồn ào, khi họ nhìn thấy hàng mấy chục chiến đấu cơ loại mới bóng mượt đáp xuống phi trường. Shiden. Loại chiến đấu cơ mà tôi đã từng bay thử không lâu trước đây. Bọn phi công mừng quýnh khi đưa các chiến đấu cơ mới nầy rời khỏi mặt đất. Tốc lực cao! Bốn đại bác! Bọc sắt! Lướt lên dữ dội! Chúi xuống như chớp!
Tinh thần của mọi người lên cao trở lại. Đa số các phi công trong tân không đoàn đã từng tham dự nhiều trận đánh và nhiều người đã hạ trên mười phi cơ địch. Chúng tôi là thành phần ưu tú của toàn thể các đơn vị không quận thuộc hải quân Hoàng Gia, điều nầy đã giải thích tại sao chúng tôi được cung cấp những phi cơ mới. Mặc dù rất cần những người tình nguyện trong các đơn vị Thần Phong, các phi công của không đoàn mới nầy hợp lại được xem là vũ khí trên không mạnh mẽ nhứt của Nhật Bản từ trước đến nay, và trung tá Nakajima đã bác bỏ tất cả những lời thỉnh cầu chuyển sang các đơn vị Thần Phong. Hơn mười ngày trôi qua, bức thơ tôi gởi cho Hatsuyo không thấy hồi âm. Tôi không hiểu tại sao nàng không trả lời tôi. Nhưng tôi không thể để cho tình cảm chi phối nhiệm vụ, nhứt là ở hiện tại. Vào ngày thứ mười hai sau khi tôi gởi bức thơ, lúc tôi rời khỏi lớp học mà tôi vừa giảng dạy về các kỹ thuật không chiến, một liwn lạc viên chạy đến báo cho tôi biết các hai người khách đang chờ đợi tôi. Tôi ra phòng khách ngay lập tức.
Tôi nhận thấy Hatsuyo và thím tôi đang chờ. Ngay khi tôi bước vô phòng, Hatsuyo đứng bật dậy. “Em đến đây, Saburo,” nàng dịu dàng nói. “Em đến đây để bàn về cuộc hôn nhân của chúng ta.”

Tôi đứng bất động, không nói nên lời.

“Nếu anh chuẩn bị để chết, Saburo, em cũng sẽ chuẩn bị như anh. Nếu chúng ta chỉ được một đôi ngày hoặc một đôi tuần bên nhau, ít ra chúng ta cũng sẽ có khoảng thời gian ấy trong tay khi chết. Đó là ý muốn của Thượng Đế dành cho chúng ta.”
“Hatsuyo!” Tôi kêu lên. Chuyện nầy khó thể tin là sự thật. Tất cả hoàn toàn kỳ diệu đối với tôi.
Thím tôi cũng góp lời để tác hợp chúng tôi.
Tôi sung sướng đến phát điên lên. Nhưng trước khi chúng tôi bàn xa hơn về hơn về hôn lễ, tôi cần phải viết thơ cho má tôi để yêu cầu người ưng thuận. Trong thơ hồi đáp, má tôi cho biết bà rất tán thành nhưng không thể tham dự hôn lễ. Đường hoả xa Kyushu hoàn toàn gián đoạn. Bà yêu cầu thím tôi lo liệu mọi chi tiết cần thiết.
Hatsuyo và tôi kết hôn vào buổi chiều ngày 11 tháng Hai năm 1945, ngày Quốc Khánh của Nhật Bản. Hôn lễ cử hành đơn giản. Không một phi công nào tham dự, vì xế trưa hôm đó có báo động không tập. Tuần trăng mật dĩ nhiên bị gạt ra ngoài vì hoàn cảnh hiện tại. Chủ Nhựt kế đó, chúng tôi mời 50 phi công của không đoàn tham dự một bữa tiệc để đền bù sự vắng mặt của họ vào đêm hôn lễ của chúng tôi.
Buổi tiệc kéo dài quá nửa đêm. Đó là những giờ phút sung sướng nhứt mà tôi chưa từng biết trước đây. Tất cả những hạnh phúc của quá khứ như bị hạnh phúc của hiện tại che mờ hết.
Mắt tôi không lúc nào rời khỏi Hatsuyo. Nàng là một giấc mơ có thật, một nữ hoàng trong những câu chuyện thần tiên, xinh đẹp, rực rỡ. Nàng là vợ tôi.


CHƯƠNG XXIII


Vào tháng Ba năm 1945, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhứt trong lịch sử của hải quân Nhựt, hai phi công chiến đấu hải quân được tuyên dương công trạng đặc biệt. Bộ Tham Mưu của Hoàng Gia đã đưa ra hành động như vậy có lẽ do ảnh hưởng tình hình quân sự khủng hoảng. Tuyên dương công trạng cho tôi và trung sỹ Shoichi Sugita, cả hai đều thuộc không đoàn Matsuyam, với ý định thúc đẩy tinh thần suy nhược của đa số phi công lúc bấy giờ.
Sugita, hai mươi bốn tuổi, phi công sáng chói. Hầu hết các hoạt động chiến đấu của hắn đều ở Truk và Philippine, Sugita đã hạ tất cả 120 phi cơ địch.
Tuy nhiên, con số đó chủ có tánh cách phỏng định. Riêng tôi, tôi tin tưởng tổng số phi cơ mà Sugita bắn hạ khoảng 80 chiếc. Sugita công nhận có nhiều chiến thắng đáng ngờ vực và không được xác định, bởi lẽ có những hoàn cảnh chiến đấu khó thể đưa ra sự kiểm soát đúng mức. Hầu hết các cuộc không chiến xảy ra gần đây, Sugita đều không có thời giờ để nhìn một chiếc phi cơ bốc cháy, tan vỡ hoặc phi công có nhảy dù ra ngoài hay không. Thật sự, chiến đấu cơ của chúng tôi không được trang bị máy chụp hình nên khó thể lấy đó làm căn cứ để xác nhận mục tiêu bị hủy diệt.
Khi một quốc gia đang thắng thế, mọi chiến công đều được soát lại một cách cẩn thận, như chúng tôi đã từng làm trong các cuộc không chiến dễ dàng của chúng tôi ở Moresby. Nhưng khi tình hình trở nên tồi tệ, qua một loạt chiến đấu trong thế thủ chống lại một đối phương vượt trội, sự chính xác không còn được lưu ý nữa. Tuy nhiên, không ai có thể hồ nghi tài ba trên không của Sugita. Sau khi quan sát lúc Sugita chiến đấu, tôi cảm thấy hắn không thua gì Nishizawa.
Sugita đã chứng tỏ tài ba siêu việt của hắn vào ngày 19 tháng Ba khi không đoàn Matsuyama nghênh chiến những phi cơ phát xuất từ các hàng không mẫu hạm địch tấn công căn cứ hải quân Kure. Mọi người trên mặt đất đã la hét vang dội khi nhìn Sugita hạ hết chiếc Hellcat nầy đến chiếc Hellcat khác. Lúc ấy tôi đứng trên đài kiểm soát để theo dõi trận không chiến ngoạn mục nầy. Đó là lần đầu tiên chiến đấu cơ mới Shiden xuất trận. Hiển nhiên loại phi cơ nầy trên chân Hellcat về tốc độ vượt lên, cũng như về hoả lực.
Một giờ sau Sugita đáp xuống. Hắn không ngớt lời ca ngợi chiếc phi cơ của hắn. Hắn ghi thêm bốn điểm được xác nhận bởi các phi công khác và có lẽ thêm ba điểm nữa, nhưng không được xác nhận. Sugita cho biết chỉ vì hết đạn nên phải quay về.
Cả ngày đó chỉ có Không Đoàn Matsuyama nhóm lên được một tia lửa hi vọng. Khắp nơi trên lãnh thổ Nhật Bản, các phi công của chúng tôi không đạt được một chiến thắng nào. Thật vậy, các chiếc Hellcat đã dập tắt tất cả những nơi chống đối khác, và chiến thắng của chúng tôi có vẻ như là sự thiệt hại duy nhứt của đối phương. Sau nầy chúng tôi có nhận được các báo cáo không chiến của người Mỹ, trong đó cho thấy họ đã tỏ ra kinh ngạc về khả năng cao độ của chiến đấu cơ Shiden. Phi công Hoa Kỳ đã xao xuyến trước khả năng chịu đựng đạn đại liên của loại chiến đấu cơ mới nầy.
Tuy nhiên, trong vòng một tháng, thảm hoạ giáng xuống không đoàn của chúng tôi. Phi công vĩ đại nhứt vẫn còn sống sót ở Nhật Bản, Soichi Sugita, bị thiệt mạng. Không đoàn Matsuyama được chuyển đến Kanoya, ở miền Nam Kyushu, để chống lại phi công Hoa Kỳ không yểm cho cuộc đổ bộ Okinawa.

Vào ngày 7 tháng Tư, không có dấu hiệu nào báo trước, một khối lượng chiến đấu cơ đông đảo của địch quân ào xuống phi trường của chúng tôi. Chúng tôi chỉ liếc thấy phi cơ địch ở cao độ 12.000 bộ khi chúng gầm thét bổ nhào xuống. Chúng tôi bị chôn chân trên mặt đất. Nhóm phi cơ địch chắc chắn xuất phát từ các hàng không mẫu hạm hoạt động ở trong hải phận Okinawa. Chúng tôi không có rada ở Kanoya, và khi còi báo động hụ thì chiến đấu cơ địch đã xuống tới nơi rồi.
Trên phi trường, lá cờ chỉ huy chiến đấu phất: “Đi và đánh”. Nhiều phi công chạy ra phi cơ của họ. Nhưng đại tá Genda thét chúng tôi dừng lại và chạy vô các hầm trú ẩn. Hiển nhiên là quá muộn, không thể nào cất cánh được nữa.

Nhưng Sugita, Shoji Matsumara và một phi công khác không nghe tiếng Genda. Ba người nầy đã nhìn thấy chiến đấu cơ trước khi có còi báo động nên đã chạy ra phi của họ rồi. Ngay lúc các chiếc Corsair và Hellcat sà thấp trên phi trường, Sugita và phi công bên cánh của hắn, với Matsumara phía sau, đang chạy đến vị trí cất cánh. Hai chiến đấu cơ địch chúi xuống từ bên phải và từ phía sau.

Viên phi công bên cánh của Sugita cất cánh đầu tiên. Khi các bánh xe của chiếc chiến đấu cơ Saiden vừa rời khỏi mặt đất, một chiếc Corsair thổi ngay một loạt đạn. Dưới hoả lực của sáu khẩu đại liên, chiếc Shiden lảo đảo dữ dội, lộn nhào liên hồi, và đâm đầu xuống đất với một tiếng nổ khủng khiếp.
Mấy phút sau, một phi công địch khác lướt xuống với các họng súng rực lửa. Tôi khủng khiếp nhìn những viên đạn tung bụi dọc phi đạo và rót vô chiếc chiến đấu cơ còn đang di chuyển của Sugita. Sugita không thể nào tránh né nổi vì phi cơ của hắn vẫn còn ở trên mặt đất.
Đạn trúng vào các bình chứa xăng của chiếc Shiden khiến nó phát nổ và biến thành một trái cầu lửa. Lửa và khói cuồn cuộn tuông về phía sau chiếc phi cơ vẫn còn chạy trên phi đạo. Không có chuyển động nào bên trong phòng lái. Tôi không thể tin vào mắt của mình. Viên phi công vĩ đại nhứt của Nhật Bản đã chết trước mắt tôi.
Sự hủy diệt chiếc phi cơ của Sugita đã cứu mạng sống của Matsumara. Những cuộn khói dày đặc của chiếc phi cơ bốc cháy đã bao che cho phi cơ của Matsumara, khiến chiến đấu cơ địch không nhìn thấy.

(Sau chiến tranh Shoji Matsumara là một phi công phản lực cơ F.86 Sabre trong tân không lực Nhật Bản. Hắn chấm dứt các phi vụ thời chiến với việc bắn hạ 6 chiếc Hellcat và Corsair trong những ngày chiến đấu cuối cùng)
Đây là những ngày khủng khiếp. Các phi công đại tài nhứt của Nhật Bản lần lượt ra đi dưới hoả lực của đối phương. Hai tháng sau cái chết của Sugita, Kinsuke Muto, người đã chiến đấu với tôi ở Iwo Jima, cũng đã thiệt mạng với hơn 35 điểm chiến thắng.
Chúng tôi không thể giữ sự xúc động trước cái chết của Muto lâu dài, khi xảy ra cái chết của một trong những “Ace” vĩ đại nhứt của chúng tôi, một cái chết khiến tất cả các phi công sửng sờ. Đại úy Naoshi Kanno, thuộc không đoàn Kanoya, đối diện định mạng gần Yaku Shima trong một chiến đấu cơ cuộn tròn lửa đỏ. Kanno nổi danh nhờ vào các thành quả chưa từng thấy trong việc chống lại loại oanh tạc cơ B.17 ở Nam Thái Bình Dương, với ít nhất 12 chiếc loại nầy bị bắn hạ trong tổng số 52 chiến thắng được xác nhận của ông. Ông là phi công đầu tiên tấn công trực diện bằng cách vừa lăn tròn vừa chúi xuống các pháo đài bay. Sau đó không lực Đức mới khám phá lối tấn công của ông và mang ra áp dụng.
Do đó, hiện thời bảng danh sách bao gồm các tên: Sasai, Ota, Nishizawa và những người khác được ghi thêm những tên tuổi lớn, Kanno, Muto và Sugita.
Bấy giờ tôi không được phép thực hiện các phi vụ chiến đấu trong thời gian ở Matsumara, là một “Ace” còn sống sót dẫn đầu tất cả các phi công khác. Những lời thỉnh cầu được lâm chiến với chiến đấu cơ Shiden của tôi luôn luôn bị đại tá Genda từ chối để rồi, cuối cùng ông ra lịnh cho tôi và Hatsuyo trở về Yokosuka. Vào tháng Tư, với sự chán nản vì mạng lịnh đặt tôi ra ngoài không trung, tôi trở về căn cứ mà tôi đã từng phục vụ trước đây.
Trở về Yokosuka, chúng tôi trãi qua bốn mươi giờ mệt mõi và mất ngủ trên xe lửa. Chúng tôi phải ngừng lại hơn hai mươi lần để đổi xa, bên ngoài các đô thị lúc ấy đang nhận sự trừng phạt nặng nề của oanh tạc cơ và chiến đấu cơ địch. Chúng tôi lướt qua những khung cảnh hoang tàn, đổ nát, dọc theo thiết lộ.
Nhưng chúng tôi đã kinh ngạc khi nhìn thấy thành phố hải quân to lớn Yokosukua vẫn còn nguyên vẹn. Thật lạ lùng, người Mỹ đã tránh né Yokosuka, trong khi hơn 100 thành phố khác bị họ thiêu rụi và san bằng, nhiều nơi không có giá trị chiến lược nếu được so với thành phố được xem là pháo đài hải quân nầy.

Có lẽ Yokosuka không còn một chiến hạm hoặc hàng không mẫu hạm nào để làm mục tiêu cho phi cơ địch dội bom. Tôi chỉ thấy loại ca nô nhỏ chạy ngang chạy dọc trong hải cảng vĩ đại để diễn tập. Đây là những chiếc ca nô giống như loại phi cơ Kamikaze. Mỗi chiếc đều chất đầy chất nổ với nhiệm vụ đâm đầu vô chiến hạm địch để cùng hủy diệt. Một lần nữa Nhật Bản phải trả một cái giá rất đắt. Nhưng có bao nhiêu người Nhựt lái loại ca nô nhỏ bé nầy?
Hải quân cấp cho chúng tôi một căn nhà ba phòng gần phi trường Oppama, ở phía Bắc Yokosuka. Đời sống của chúng tôi thiếu thốn mọi bề. Hatsuyo đã xoay sở hết cách trên số thực phẩm yếu kém của chúng tôi. Thức ăn dành cho sĩ quan và binh sĩ không khác gì nhau. Tất cả hợp tác xã và các trung tâm trao đổi độc lập khác trống rỗng hàng hoá từ lâu. Hầu hết các tiệm buôn trong thành phố đều đóng cửa. Mặc dù thoát khỏi các cuộc không tập nghiền nát như đã xảy ra ở các thành phố khác, Yokosuka cũng ảm đảm và suy nhược. Nhiều người có vẻ đói ăn bước nặng nhọc trên đường phố.
Oanh tạc cơ B.29 vẫn tiếp tục đến xứ sở chúng tôi, số lượng đông đảo hơn, mang bom nhiều hơn.
Khắp nước Nhựt rúng động bởi các cuộc không tập Đông Kinh đã xảy ra vào đêm 10 tháng Ba. Hơn 19 dặm vuông của thành phố bị san bằng. Theo tin tức, có hơn 130.000 người thiệt mạng.
Nguyên thủy, Lục Quân lãnh trách nhiệm nhăn chặn các oanh tạc cơ địch, nhưng không bao giờ hoàn tất nhiệm vụ. Hiện tại, trách nhiệm bảo vệ quê hương nằm hoàn toàn trong tay hải quân. Mỗi ngày chiến đấu cơ của chúng tôi đều đụng độ với oanh tạc cơ B.29, và mỗi ngày hiệu năng mỗi giảm đi. Phi công chúng tôi đã tận lực, nhưng tận lực chưa đủ để chống các siêu pháo đài bay.

Từ Atsugi gần Yokosuka, các chiến đấu cơ Raiden cất cánh thực hiện nhiều phi vụ nghinh chiến pháo đài bay B.29 với vài kết quả khả quan trong một giai đoạn ngắn. Sau đó, địch quân tung chiến đấu cơ Mustang đông đảo trong các cuộc không kích vào ban ngày. Chiến đấu cơ Raiden bó tay trước những chiếc Mustang vượt trội nhiều mặt. Hầu như mỗi ngày đều có chiến đấu cơ mới của chúng tôi bị cháy, cánh đứt lìa, phi công thiệt mạng.
Trong cuộc tàn sát khủng khiếp nầy, một phi công sáng chói xuất hiện, một người có khả năng bay siêu việt. Trung úy Teimei Akamatsu, một phi công khác biệt hẳn với các đồng đội, khác biệt có thể nói như đêm với ngày. Một phi công chiến đấu không cần sách vở, một loại anh hùng rơm, ồn ào và luôn luôn vui vẻ. Akamatsu gia nhập hải quân trước tôi gần mười năm, nhưng thăng cấp chậm chạp nếu so với những phi công khác có cùng một thời gian phục vụ. Thật ra, hắn bị giáng cấp nhiều lần, và bị đe doạ cho giải ngũ vì lý do hạnh kiểm. Hắn ta vẫn không cải hoá, nhưng phải công nhận đó là một thiên tài trên không, và do đó, hải quân phải miễn cưỡng xử dụng hắn.
Hạnh kiểm của Akamatsu đã làm cho các sĩ quan thượng cấp của hắn muốn chết giấc. Trong các phi vụ, thay vì chờ đợi và nghe thuyết trình như những người khác, hắn nằm lì trong nhà điếm với một hệ thống thông báo riêng, và thường chạy như giông như gió ra sân bay trong một chiếc xe hơi cũ kỹ, một tay cầm lái, một tay cầm chai rượu. Trên không trung, hắn cũng làm loạn như ở dưới mặt đất, và đó là phi công duy nhứt đạt chiến thắng khi đụng độ với cả hai loại chiến đấu cơ Mustang và Hellcat. Với chiến đấu cơ Raiden trong tay, Akamatsu đã bắn rơi có hơn 10 chiếc cả hai loại phi cơ địch được coi là tuyệt hảo nầy, một chiến công khác khó thể với tới.
Akamatsu chiến đấu liên tục hơn sáu năm ở Trung Hoa, rồi sau đó chiến đấu khắp nơi trong khu vực Thái Bình Dương, và thường thường trở về căn cứ với chiếc phi cơ bị bắn tả tơi, vừa cười vừa la hét vang dội.
Chính Akamatsu cũng không biết hắn đã bắn hạ được bao nhiêu phi cơ tất cả. Khi nhậu say, hắn đấm tay lên bàn và rống lớn rằng mình đã thổi bay xuống đất ít nhứt 350 phi cơ Đồng Minh. Hắn không bao giờ khoe khoang như thế khi còn tỉnh táo. Nhiều phi công khác từng chiến đấu với hắn và còn sống sót sau cuộc chiến đã điều chỉnh con số nầy xuống khoảng 50.
Tôi thường thấy Akamatsu đáp xuống Oppama vì thiếu xăng, không bay về tới Atsugi. Mọi người trên mặt đất lấy làm phấn khởi khi nhìn thấy hắn bước xuống phi cơ, dí mũi của hắn vô mấy lỗ đạn, và luôn luôn nhe răng cười. Thấy tôi hắn thét và chỉa nhiều ngón tay lên, cho biết con số phi cơ mà hắn đã hạ trong ngày hôm đó.
Đã hơn một lần Akamatsu cất cánh thực hiện một phi vụ gồm từ năm đến tám chiến đấu cơ, và hắn là phi công duy nhứt còn sống sót sau các trận đánh. Các chiến đấu cơ Mustang là những con mồi mà hắn khoái nhứt, và hắn tỏ ra kính nể chiến đấu cơ Hoa Kỳ thật lòng.
Akamatsu sống sót sau chiến tranh, hiện thời hắn làm chủ một nhà ăn nhỏ ở Kochi, thành phố sinh quán của hắn trên đảo Shikoku (lúc nầy là năm 1956, vài năm sau Akamatsu chết vì bệnh ung thư gan)
Căn cứ không quân Oppama là một phi trường thử phi cơ chánh. Tôi không có cơ hội để chiến đấu trở lại, vì vị chỉ huy trưởng căn cứ cho rằng kinh nghiệm lâu năm của tôi có ích lợi trong việc thử nghiệm các loại phi cơ mới hơn. Tuy nhiên, tôi biết rằng chiến đấu nữa chỉ là vấn đề của thời gian. Bất kì ai có thể bay được, bất kì phi cơ nào cất cánh được đều sẽ quăng ra để chống lại hạm đội đổ bộ của địch quân.

Vào tháng Sáu, tôi được lịnh trình diện căn cứ Nagoya để bay thử loại chiến đấu cơ mới. Đó là chiến đấu cơ Reppu, có tốc lực mau hơn bất kì loại phi cơ nào mà tôi đã từng bay thử trước đây. Với một động cơ cực mạnh và nhiều phương diện khác, có thể nói Reppu vượt xa mọi loại phi cơ của Nhật Bản lẫn Hoa Kỳ, và theo các kỹ sư chế tạo, nó sẽ chiến đấu hữu hiệu dầu ở cao độ 40.000 bộ.
Tuy nhiên, các cơ xưởng Mitsubishi, sản xuất chiến đấu cơ Reppu, biến thành đống gạch vụn trước khi công việc sản xuất xúc tiến mạnh. Chỉ hoàn tất được 7 chiếc. Sau chiến tranh, phi công Hoa Kỳ có bay thử loại phi cơ nầy và họ đã tỏ vẻ kinh ngạc với sự nhanh nhẹn của nó.
Trước khi đi Nagoya, Hatsuyo khăng khăng bắt tôi phải hứa mua cho nàng một lưỡi dao găm nhỏ. Thành phố nầy nổi tiếng là nhờ có dao găm và kiếm tốt. Khi tôi trở về Hatsuyo lặng lẽ ngắm nghía lưỡi dao mà tôi vừa trao, rờ rẫm bề lưỡi một cách cẩn thận. “Saburo, nó không bén.” Nàng nhìn tôi. “Ngày mai, anh có thể đem con dao đi Oppama mài cho bén hơn không?’
Thái độ trang nghiêm của nàng khiến tôi giựt mình. Tôi hỏi: “Em muốn dùng con dao nầy để làm gì?”
Nàng nắm lấy tay tôi và nhìn thẳng vô mắt tôi. “Anh là đời sống của em, Saburo” nàng dịu dàng nói. “Đối với em, anh là mọi thứ trên quả đất nầy. Chỉ một việc duy nhứt mà em sẽ làm một khi anh chết…” Nàng không nói thêm nữa, và tôi đã hiểu nàng muốn nói gì.

Ngày hôm sau tôi mài lưỡi dao trên một cục đá bùn cho đến khi nó sắc như một lưỡi dao cạo. Đêm đó, Hatsuyo thử lưỡi dao bằng cách cắt nhè nhẹ trên giấy lụa. “Tốt lắm rồi,” nàng phê bình, rồi nhét dưới giây lưng kimono của nàng. Chúng tôi không bao giờ bàn lại vấn đề nầy.
Khắp cả nước Nhựt chịu đựng nỗi thống khổ còn hơn sự đau đớn và khủng khiếp của các trận oanh tạc. Quốc gia đã phân tán, các đô thị nằm suy nhược, hoi hóp như một bị một bàn chân khổng lồ dẫm lên. Ngày cuối cùng sắp xảy ra, không ai hồ nghi điều nầy, và cuộc chiến đấu sắp di chuyển đến đất nước của chúng tôi. Không thể nào có chuyện đầu hàng. Chúng tôi sẽ chiến đấu đến người cuối cùng.
Vào ngày 6 tháng Tám, các tin tức về một trái bom vĩ đại và khủng khiếp được thả xuống Hiroshima, sau nầy mới được biết đó là một trái bom nguyên tử, đã khiến cho tất cả các phi công ở Oppama sửng sờ. Rồi đến quả đấm của Nga Sô qua cuộc đổ bộ ở Mãn Châu, hầu như liền tiếp ngay sau trái bom nguyên tử.
Kế nữa là trái bom nguyên tử thứ hai được thả xuống Nagasaki. Đầu óc của tôi mờ mịt trước sự tàn phá không tưởng do người Mỹ gây ra. Tất cả đã vượt quá giới hạn của niềm tin. Tất cả không thể là sự thật, nhưng đó là sự thật.
Lúc 3 giờ trưa ngày 13 tháng Tám, tất cả sĩ quan ở căn cứ Oppama được triệu tập vội vã đến tham dự một buổi họp mật trong văn phòng của Chỉ Huy Trưởng. Vị sĩ quan chỉ huy trưởng của chúng tôi có vẻ xanh xao và xúc động. Ông hầu như không thể đứng được nên phải dựa vào bàn giấy. Ông cất tiếng một cách yếu ớt, giọng nói ngập ngừng.
“ Những gì tôi muốn nói với các bạn có tầm mức quan trọng tột cùng,” ông bắt đầu, “và tuyệt đối giữ bí mật. Tôi tin cậy vào sự ngay thẳng của các bạn, với tư cách là những sĩ quan của hải quân Hoàng Gia, trong việc giữ kín tin tức nầy một cách nghiêm nhặt.”
“ Nhật Bản,” tới đây giọng ông xúc động, “đã quyết định chấp nhận các điều kiện của kẻ thù. Chúng ta sẽ tuân theo tuyên ngôn Postdam.”
Ông nhìn chúng tôi với đôi mắt trống rỗng. “Lịnh đầu hàng có thể được công bố bất cứ lúc nào. Tôi muốn tất cả sĩ quan tận lực hợp tác với tôi. Trật tự phải được duy trì tại căn cứ nầy. Có thể, những người nóng tánh sẽ từ chối chấp nhận quyết định đầu hàng. Chúng ta không thể nào để cho binh sỹ của chúng ta vi phạm bất cứ tình trạng nào mà quốc gia chúng ta đã chấp nhận. Hãy nhớ, và không bao giờ được quên, rằng mạng lịnh của Thiên Hoàng là tối thượng.”
Giống như một trái bom nổ giữa chúng tôi, và không một người nào động đậy. Chúng tôi đứng như trời trồng, không thể tin nỗi. Chúng tôi biết ngày cuối cùng sẽ đến, nhưng chúng tôi không ngờ nó sẽ đến như thế nầy. Nhiều người bước chậm chạp trong căn phòng, sửng sốt, nhiều người nhìn phía trước hoặc nhìn xuống sàn nhà, ngờ nghệch. Một số la hét, một số khác nguyền rủa.
Tôi không đủ sức suy nghĩ hoặc thốt nên lời. Tôi bước ra ngoài, trong sương mù, băng ngang qua sân bay, mắt nhìn thẳng. Tôi muốn được gần chiếc phi cơ của tôi, và tôi đứng dựa vô chiếc Zero một cách suy nhược.
Một người bạn thân của tôi, thiếu úy Jiro Kawachi, bước đến bên tôi. Trong nhiều phút, chúng tôi đứng lặng yên.
Đã vượt qua rồi.
Chúng tôi đã thua.
Nhật Bản sắp “đầu hàng” .
“Saburo”. Tôi nhìn lên. “Saburo, việc nầy… việc nầy đúng là kết thúc rồi,” Kawachi nói. “Chúng ta còn ít thời giờ. Chúng ta nên chiến đấu với nhau một lần nữa. Một cuộc chiến đấu cuối cùng.”
Hắn đưa chân đã phớt trên mặt đất. “Chúng ta không thể nào buông tay như vậy. Chúng ta phải gắng sức, một lần nữa.”
Tôi gật đầu. Hắn nói đúng. Chúng tôi ra lịnh cho nhân viên bảo trì chuyển hai chiếc Zero ra ngoài phi đạo, chuẩn bị cất cánh. Chúng tôi biết các pháo đài bay sẽ đến oanh tạc đêm nay. Thời tiết có vẻ đầy hứa hẹn.
Kawachi và tôi giữ kín kế hoạch, không nói cho phi công nào khác biết. Sau khi kiểm soát hai chiến đấu cơ , chúng tôi đi vô đài kiểm soát và ngồi chờ. Nhiều giờ trôi qua, chúng tôi không nói một tiếng nào. Chúng tôi đang nghĩ ngợi, hình ảnh những năm dài dằng dặc ở Trung Hoa lần lượt hiện đến.
Buổi chiều trôi qua, và chúng tôi vẫn ngồi chờ, hầu như xoá nhoà trong bóng tối. Gần nửa đêm, chiếc loa trên đài kiểm soát vang tiếng: “Báo động! Báo động! Một chiếc B.29 hiện đang bay về phía khu vực Yokosuka – Đông Kinh.”
Chúng tôi nhảy tưng lên, và chạy băng qua phi đạo đến phi cơ. Căn cứ bao trùm trong bóng đêm, không một ánh đèn. Những vì sao lấp lánh trên bầu trời đủ soi đường cho chúng tôi. Chúng tôi bước đến hai chiếc Zero, nhận thấy không phải chúng tôi là hai phi công duy nhứt thực hiện phi vụ cuối cùng. Ít nhứt cũng có tám chiến đấu cơ khác được xếp thành hàng bên cạnh phi đạo, xăng nhớt và võ trang đầy đủ. Ngại với một con mắt sẽ không nhìn rõ trong đêm, tôi yêu cầu Kawachi hướng dẫn tôi rời khỏi mặt đất. Chúng tôi cất cánh lập tức, không nói với nhau một tiếng nào nữa. Chúng tôi biết nếu chần chờ, vị chỉ huy trưởng có thể cản trở chúng tôi. Ngay khi đã lên không, tôi bay sát phi cơ của Kawachi. Tám chiến đấu cơ Zero khác cũng đã cất cánh, bay thành hai hàng phía sau chúng tôi. Chúng tôi vượt thẳng lên, rồi lượn vòng ở cao độ 10.000 bộ trên vịnh Đông Kinh.
Trong nhiều phút, chúng tôi không nhìn thấy phi cơ nào khác trên bầu trời. Bỗng nhiên, súng đại bác của Kawachi lên tiếng, và tôi nhìn ra chiếc oanh tạc cơ to lớn đang bay ở phía Bắc. Tôi vượt lên song song với Kawachi và khai hoả. Mỗi chúng tôi hiện thời có bốn khẩu đại bác và chúng tôi cần tập trung để chống lại chiếc phi cơ kinh khiếp nầy. Tôi chưa từng thấy chiếc oanh tạc cơ nào khổng lồ như vậy. Khi vừa xoay vừa bắn đủ một vòng, tôi thấy tám chiến đấu cơ khác ồ ạt xông tới chiếc siêu pháo đài bay. Chúng tôi giống như mấy con muỗi bu quanh một con bò mộng. Làm sao chúng tôi có thể hy vọng hạ được một chiếc phi cơ có kích thước quá sức tưởng tượng như vậy?
Tôi lại lướt đến, và vừa vượt lên vừa rót đạn dưới hông của chiếc B.29. hoả lực đáp trả thật khủng khiếp. Những giòng đạn rót từ các pháo tháp to lớn trên chiếc B.29 và tôi cảm thấy chiếc chiến đấu cơ rùng mình nhiều lần khi các xạ thủ địch nhắm trúng.

Bỗng nhiên chiếc Siêu pháo đài bay quay đầu bay về phía Nam. Hiển nhiên, chúng tôi đã gây thương tích cho đối thủ. Hai chúng tôi gia tăng tốc độ khẩn cấp, mở cuộc truy đuổi, bỏ hẳn tám chiến đấu cơ khác lại phía sau.
Kawachi hơi chúi xuống, cắt thẳng vào vòng xoay rộng lớn của chiếc B.29, với tôi bay phía sau. Lần nầy mục tiêu đã rõ rệt, cả tôi lẫn Kawachi đều ấn cò súng và nhìn theo những vệt đạn soi thủng vô cửa kiếng dọc theo mũi của chiếc oanh tạc cơ. Bỗng nhiên tốc độ của phi cơ địch khựng lại và chúi xuống. Chúng tôi xoay lại và rót đạn đại bác theo chiếc phi cơ què quặt.
Chiếc oanh tạc cơ khổng lồ chúi xuống thật mau nhưng không nhìn thấy khói và lửa bốc ra. Nó không có vẻ gì bị hư hạ, nhưng vẫn tiếp tục mất độ cao một cách nhanh chóng, mũi hướng xuống mặt biển.

Tôi cứ bay chúi theo sau đối thủ. Đảo Oshima thình lình xuất hiện thình lình xuất hiện trong đêm tối. Chúng tôi đang ở cách phía Nam Yokosuka 50 dặm.
Chúng tôi lấy thăng bằng và vượt lên cao độ 1.500 bộ. Một ngọn núi lửa trên hòn đảo nổi khỏi mặt nước 1.000 bộ. Chúng tôi không dám liều lĩnh thêm vì ngại đụng chạm trong đêm tối, nhưng tôi có thể nhìn thấy chiếc oanh tạc cơ rơi xuống khá rõ ràng. Một cột nước trắng xoá nổi bật trên mặt biển, cách bờ biển phía Nam Oshima nhiều dặm. Không đầy một phút, chiếc B.29 biến mất.
Trở về phi trường, chúng tôi đối diện với cơn thịnh nộ của vị chỉ huy trưởng, nhưng sau đó ông đã dằn xuống. “Tôi không trách các anh được,” ông nói “nhưng chúng ta không thể để cho những gì xảy ra đêm nay tái diễn nữa. Từ bây giờ về sau, tất cả phi cơ đều phải ở trên mặt đất.”
Ông cho tôi biết ở phi trường Atsugi đang xảy ra những vụ bạo động dữ dội, gần như là một cuộc nổi loạn. Đó là căn cứ chiến đấu cơ Raiden, đơn vị của trung úy Akamatsu. Nhóm phi công ở đây không chấp nhận ý kiến đầu hàng, và họ định đưa tất cả phi cơ của họ lên không. Họ mất trí, bất chấp các sĩ quan, nhứt quyết không đầu hàng và sẽ chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Lực lượng tăng viện được đưa đến để dập tắt cuộc nổi loạn, và trật tự chỉ được vãn hồi sau khi cuộc đầu hàng được công bố nhiều ngày.
Sự hủy diệt của chiếc oanh tạc cơ địch được giữ bí mật nhiều năm, và không có hồ sơ nào ghi lại chuyến bay đêm đó của chúng tôi. Và dĩ nhiên, không có phi công nào tự nhận đã hạ được chiếc B.29. Đây là tiết lộ đầu tiên của tôi liên quan đến trận không chiến cuối cùng nầy. Chúng tôi không mảy may cảm thấy vui mừng lúc hạ được chiếc oanh tạc cơ ghê gớm đó. Lúc ấy không có việc gì đáng lưu tâm ngoại trừ việc chúng tôi sắp sửa giao nộp xứ sở, dân chúng tôi cho kẻ thù.
Nhiều binh sĩ khác đã lộ vẽ sửng sốt, nếu không nói là xúc động, khi buổi bình minh lịch sử của ngày 15 tháng Tám năm 1945 hiện đến. Chiến tranh đã kết thúc. Trong mọi văn phòng, các sĩ quan cao cấp thiêu hủy hồ sơ và tài liệu. Binh sĩ đi vòng quanh, ngồi trên nền nhà hoặc trên mặt đất phía bên ngoài, như ngây như dại.
Đúng trưa hôm đó, chúng tôi nghe Thiên Hoàng đích thân ban lịnh đầu hàng xuống các lực lượng võ trang Nhật Bản. Hai ngàn quân dân các cấp ở căn cứ Oppama đứng nghiêm chỉnh trên phi trường. Hầu hết chúng tôi chưa bao giờ được nghe tiếng nói của Thiên Hoàng. Nhiều người đã bật khóc.
Bỗng nhiên tôi nhớ đến Hatsuyo! Nàng sẽ nghĩ gì? Nếu nàng nghe được tiếng nói được truyền thanh của Thiên Hoàng, nàng sẽ nghĩ rằng tôi đã chết và …
Tôi không nghe thêm nữa, tôi chạy khỏi chổ đứng. Không có một chiếc xe hơi nào. Tôi chụp ngay một chiếc xe đạp và đạp như giông như gió về ngôi nhà nhỏ bé của tôi. Chỉ trong một vài phút tôi về đến nơi.
Tôi nhảy khỏi xe đạp ngay trước khi nó ngừng lại. Tôi tung cửa la gọi Hatsuyo. Nàng chạy ra khỏi phòng và nhào vô đôi tay tôi. Chúng tôi ghì chặt nhau trong nhiều phút, không thể thốt nên lời.
Cuối cùng, nàng ngước đầu lên. “ Có phải đúng là anh không, Saburo?” Nàng thì thầm. Tôi gật đầu.
“ Ô! Anh yêu,” nàng kêu lên. “Khi em nghe, em đã khóc như một đứa trẻ. Có thật chấm dứt rồi không? Đánh nhau… những trận bom, tất cả không còn nữa?”
Tôi gật đầu nhè nhẹ.
“ Em không cần biết cái gì đã xảy ra, Saburo. Em không chú ý! Anh yêu, anh đã thắng tất cả các trận đánh của anh, cho dù Nhật Bản đã thua”.
Một ánh sáng bừng lên trong đôi mắt của nàng khi nàng nhìn tôi. “Anh, anh sẽ không bao giờ chiến đấu lại nữa!” nàng thì thầm. “Hiện thời tất cả đã vượt qua hết rồi! Không bao giờ, không bao giờ!”
Bỗng nhiên nàng lùi lại và rút con dao găm dưới giây lưng.
“ Em sẽ không bao giờ cần tới thứ nầy nữa!” Nàng vừa kêu lên vừa liệng con dao xuống nền nhà.
Con dao găm lăn long lốc ngang qua nền phòng và ngừng lại trong một góc.
Hết

Cuộc đời của viên phi công đại tài của Nhật Bản trong Thế Chiến Thứ II đã kết thúc một cách bình thãn vào ngày 21 tháng Chín năm 2000, do một cơn đau tim trong một buổi trò chuyện với một sỹ quan cao cấp của Hải Quân Mỹ, ông thọ 84 tuổi. Đám tang của ông được cử hành long trọng ở căn cứ hải quân Atsugi
đây là bản đánh máy lại bản gốc do nhà xuất bản Sông Kiên xuất bản năm 1972 , người dịch Nguyễn Nhược Nghiễm.

Vậy là hoàn tất việc post quyển sách nầy rồi đấy các bạn ạ!!!
Hi vọng mọi người sẽ hiểu thêm nữa về đời sống và tình thần của các Samurai trên không trong WWII.

Người đánh máy và post:
sakaifan Yahoo chat: khung246


***

Chân thành biết ơn bạn sakaifan đã có công đem lại cho những độc giả KQ chúng tôi bộ truyện Samurai tuyệt tác này. (McKeno)




No comments: